Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2012

Lễ hội giữ hồn lúa ở các quốc gia đông nam á

Lễ hội giữ hồn lúa ở các quốc gia đông nam á

Nông nghiệp trồng lúa, mà chủ yếu là lúa nước, đã trở thành đặc trưng kinh tế của khu vực Đông Nam Á. Lúa được coi là linh hồn trong lao động sản xuất và sinh hoạt văn hóa tinh thần của cư dân khu vực này. Có thể nói, chính nghề nông trồng lúa nước đã nảy sinh hầu hết các lễ hội cổ truyền ở Đông Nam Á, trong đó có lễ hội giữ hồn lúa.

Nguồn gốc của lễ hội giữ hồn lúa

Là cư dân của những quốc gia nông nghiệp, người Đông Nam Á mang đậm nét văn hóa nông nghiệp lúa nước. Từ xa xưa, họ đã có quan niệm: mọi vật bao giờ cũng có hai phần, phần xác và phần hồn. Mỗi cây lúa cũng vậy, đều có hồn lúa trú ngụ. Hồn sẽ mang lại sinh khí, giúp cho cây lúa tươi tốt, đâm bông, trổ hạt. Giống như con người, cây lúa sẽ chết nếu phần hồn dời bỏ nó. Và theo đó, nghi lễ giữ hồn cho cây lúa đã xuất hiện rất tự nhiên như bao tín ngưỡng khác của cư dân nông nghiệp nơi đây.

Hồn của vạn vật là cái gì đó rất mơ hồ. Hình dạng hồn của mỗi vật được nhận thức một cách khác nhau do quan niệm của hoàn cảnh sống, do cảm nhận của giác quan. Với người dân nông nghiệp Đông Nam Á, hồn lúa luôn hiện lên với hình tượng của người phụ nữ. Có nhiều cách lý giải về điều này. Có ý kiến cho rằng, kinh tế cơ bản của cư dân nơi đây là trồng trọt, người phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng ở buổi ban đầu trong cuộc sống hái lượm và trồng trọt. Với công việc đó, người phụ nữ đã đảm nhận vai trò to lớn, được trân trọng với sự hình thành chế độ mẫu hệ (1). Có lẽ thế nên hồn lúa, sinh khí sự sống của cây lúa, đã hóa thân vào họ. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu về văn hóa Đông Nam Á lại có kiến giải: chức năng người phụ nữ là sinh sản, duy trì nòi giống. Điều đó cũng có ở cây lúa. Và như thế, người phụ nữ chính là biểu tượng thiêng liêng của hồn lúa… (2). Dù là cách lý giải nào thuyết phục, thì cũng đều có một điểm chung, đó là sự trân trọng hồn lúa như hình ảnh người mẹ không thể thiếu trong các gia đình nông nghiệp Đông Nam Á. Với mỗi nơi, cách gọi về hồn lúa là khác nhau. Có thể đó là thần lúa, nữ thần lúa, có nơi đặt tên là mẹ lúa, hoặc công chúa mặt trời…

Là tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng giữ hồn cây lúa cũng có rất nhiều truyền thuyết giải thích về sự ra đời của nó. Truyền thuyết Malaysia có kể về sự thần kỳ của hạt lúa khi tự lăn về nhà, chui vào nồi để con người chỉ việc nấu thành cơm. Khi nấu cơm, không được mở vung, tự khắc cơm sẽ chín. Việc mở vung trong quá trình nấu là một điều cấm kỵ. Bởi lúa gạo là con gái, nên người đàn ông tuyệt đối không được nấu cơm. Thế rồi một hôm, người mẹ phải đi làm và nhắc nhở con ở nhà về những điều cấm kỵ khi nấu cơm. Tuy nhiên, người con đã không thực hiện lời dặn dò của mẹ. Khi vung nồi mở ra, một cô bé rất xinh đẹp xuất hiện rồi ngay lập tức biến mất, chỉ để lại một hạt gạo nhỏ. Từ khi đó, tất cả những công việc đồng áng (cày cấy, gieo hạt, gặt hái, phơi thóc, quạt sạch và mang vào nhà), con người đều phải tự mình làm.

Câu chuyện về thần lúa của người Khơme cũng có nhắc đến sự thần kỳ của hạt lúa buổi ban đầu khi đến với con người. Truyền thuyết Khơme kể rằng: khi xưa, lúa chín, tự khắc bay về nhà, con người không phải gặt hái. Một hôm, hai vợ chồng nọ cãi vã nhau, làm thần lúa khó chịu. Thế rồi, người bỏ đi. Người Khơme tìm mọi cách, nhưng đều bị thần lúa từ chối. Nạn đói đã xảy ra. Thật may mắn, một thày cúng đã mời được vị thần này quay trở lại. Nhưng cũng từ đó, thóc lúa cũng không tự bay về nữa… (3).

Nhiều truyền thuyết khác ở các nước Đông Nam Á cũng có cốt truyện như hai truyền thuyết trên. Với nội dung như thế, con người muốn răn dạy thế hệ sau phải biết quý trọng thành quả lao động của mình, sống thủy chung, có trước, có sau… Và, khi đã tin rằng cây lúa có hồn như vạn vật khác, con người đã nảy sinh tư tưởng sùng bái. Họ cầu khấn để hồn lúa ở lại với cây lúa, với cuộc sống của họ. Trong không khí trang trọng, linh thiêng, họ cầu được mùa, thì thầm những điều mong muốn, khẩn cầu thần lúa ban cho họ một cuộc sống no đủ, an lành…

Lễ hội giữ hồn lúa ở các quốc gia Đông Nam Á

Để giữ hồn cho cây lúa, đương nhiên nghi lễ này sẽ được tiến hành vào đầu mùa gieo hạt hoặc đầu mùa gặt. Cư dân Đông Nam Á quan niệm, đây là thời điểm hồn lúa rất dễ bay đi do thay đổi chỗ ở.

Ở Malaysia và Singapor, hồn lúa được gọi là công chúa mặt trời. Sau các nghi lễ long trọng ở ngoài đồng, công chúa mặt trời được rước về nhà trong một khung cảnh lộng lẫy. Trong lễ hội này, người ta tuyển chọn một cô gái đẹp, cho mặc xiêm y màu vàng (biểu tượng cho hạt lúa chín), bố trí ngồi trên chiếc xe dán giấy trang kim sặc sỡ, xung quanh cô là rất nhiều bó lúa được xếp như là những đóa hoa. Chiếc xe chở cô gái, biểu tượng của công chúa mặt trời, được đi đầu đoàn xe chở lúa. Trên tay cô gái là một bó lúa được gặt từ thửa ruộng thiêng. Khi về đến sân đập, cô gái sẽ chia bó lúa (thường là 7 nhánh) cho các bà mẹ trong làng. Những người phụ nữ này mang các nhánh lúa được chia, bọc trong một chiếc khăn sạch và bỏ vào giỏ riêng. Giỏ được coi như một chiếc nôi để hồn lúa nằm. Sau đó, họ cẩn thận đặt chiếc giỏ ấy vào kho thóc của gia đình.

Tại Thái Lan, vào khoảng tháng chín âm lịch, khi mà cây lúa bắt đầu ngậm đòng kết hạt, người Thái bắt đầu chọn ngày làm lễ cầu nữ thần lúa. Lễ hội diễn ra rất tưng bừng, náo nhiệt, được tổ chức khá công phu ở ngoài đồng. Người ta lấy rơm, kết lại thành hình một người phụ nữ rồi đặt ở ngoài đồng cùng lụa là, các lễ vật khác: bánh chuối, trứng và một nắm cơm; còn có thêm cả phấn, nước hoa và lược. Họ quan niệm, nữ thần lúa cần trang điểm, chải chuốt bộ tóc mượt mà. Cũng có nơi, họ mặc thêm bộ quần áo mới may cho người rơm. Họ cầu mong nữ thần lúa sinh sản nhiều lúa, sao cho thóc đầy vựa, cơm đầy nồi.

Đến mùa thu hoạch, lễ hội được tổ chức cả sân đập và kho chứa lúa. Sau khi cúng, người ta đặt đồ cúng cùng người rơm trên đống lúa vừa gặt. Khi lúa đã được chuyển hết về sân đập, người nông dân nơi đây còn ùa đi tìm nhặt những bông lúa rơi vãi và còn sót lại ở ngoài đồng. Các nghiên cứu về văn hóa dân gian Thái Lan cho rằng, sở dĩ người dân Thái có hành động như vậy vì sợ chính những bông lúa rơi vãi ấy có chứa thần lúa của họ, và nếu không tìm, người sẽ lạc đường. Nếu thần lúa lạc đường, thì năm sau, vị thần này sẽ không đến phù hộ cho cây lúa của họ đâm bông, trổ hạt nữa. Vừa nhặt thóc rơi, họ vừa khấn: “Cầu mong thần lúa đừng đi lạc, mong người hãy về nhà kho, nơi sung sướng, hãy nuôi sống con cháu của người”(4).

Các nghi lễ ở sân đập lúa cũng giống như ngoài đồng. Tại đây, người ta khẩn cầu thần lúa tha thứ cho những hành động, mà theo họ là đã làm cho thần lúa đau đớn. Sau khi xong xuôi, mọi người ăn uống, vui chơi ngay trên sân đập. Trước khi cất thóc vào kho, người dân Thái còn dựng một chòi lễ bằng tre, lợp rơm, trên có cắm một vài bông lúa. Trong chòi có bệ đặt tượng Phật, cùng đồ lễ và một bình chứa, thóc rơi vãi ngoài đồng. Các vị sư được mời đến tụng kinh, vẩy nước thiêng vào bình thóc và vào thóc giống (lấy từ thửa ruộng thiêng) để tăng sức sống cho thần lúa. Sau cùng là lễ thức đóng cửa kho chứa thóc. Nghi lễ tiến hành giống như lễ cất thóc.

Lễ hội vun thóc trên sân ở Lào, còn gọi là Bun khun khảu nay lan, được tổ chức vào tháng ba, để tạ ơn các thần và tổ tiên đã phù hộ cho vụ mùa bội thu. Ngày hội vun thóc còn là dịp để người ta làm phúc, làm việc thiện. Họ hy vọng, những điều tốt làm được sẽ giúp Thần Lúa cảm động mà mang tới cho họ một mùa màng bội thu vào năm sau, cho lúa trong kho múc ăn không vơi, đong ra không cạn.

Khi mùa màng đến, họ vun thóc thành đống lớn trên sân. Các tác giả cuốn Lịch sử Lào (Viện nghiên cứu ĐNA, 1995) cho biết: Trong ngày hội này, các nhà chuẩn bị các đồ cúng, dâng lên thần lúa, như bún, bánh, đồ xôi cùng hương hoa và vài âu nước lạnh. Gia chủ sẽ lấy chỉ trắng giăng thành nhiều vòng quanh đống thóc, rồi mời các vị tăng sư và họ hàng tới dự. Cũng giống như Thái Lan, các vị sư được mời đến đọc kinh và vẩy nước thiêng. Nước thiêng còn lại sẽ được gia chủ đem vẩy ở ruộng, vẩy lên trâu bò và các công cụ… Sau đó, gia đình làm lễ cúng tổ tiên. Khi các nghi thức xong xuôi, mọi người cùng ăn uống vui vẻ và trò chuyện trên sân đập lúa. Buổi tối các nhà dâng hương lên chùa và nghe tụng kinh, còn ngoài sân đập lúa, thanh niên vui đùa, ca hát (5).

Sau hội vun thóc trên sân, thóc được chuyển vào kho bằng một lễ rước rất náo nhiệt. Trên chiếc xe đầu tiên, người ta chở một hình nhân bằng rơm cùng các lễ vật, rồi tiếp theo là xe chở thóc. Khi tới kho, người ta đặt hình nhân vào kho. Đóng cửa kho xong, người ta treo các cành lá cầu may ở cửa kho thóc. Lễ rước kết thúc bằng các bài hát vui nhộn.

Cũng vào tháng ba, lễ tạ ơn hồn cây lúa được tổ chức ở Campuchia. Lễ hội bao gồm: hội dâng lửa, hội vun đống thóc và hội rước thóc. Hội dâng lửa và vun đống thóc được tổ chức ngay ngoài ruộng hoặc trong làng hay trên sân chùa. Người ta vun một đống thóc to ở giữa ruộng hoặc bãi, sân, rồi đốt một đống lửa để làm lễ và sau đó vui hội (6).

Bên cạnh đó, người Campuchia còn có lễ rước lúa ra đồng. Lễ hội này được tổ chức rất lớn với quy mô quốc gia. Họ quan niệm, thần lúa là những bông lúa dài, mẩy hạt, chọn từ thửa ruộng thiêng của năm trước. Các bông lúa này sẽ được buộc vào một cây mía to, đủ ngọn, mong muốn những cây lúa sau này sẽ tươi tốt như mía. Những hạt lúa thiêng có hồn lúa trú ngụ, được một đoàn xe cùng với voi chở về các vùng trồng lúa. Sau đó, lúa thiêng được trộn với lúa giống để truyền sức mạnh của hồn lúa cho những hạt lúa sắp gieo. Người dân ở khắp nơi trên đất nước Chùa Tháp tin tưởng vào một vụ mùa bội thu, bởi trong các hạt thóc đem gieo đều có hồn lúa trú ngụ. Trong tiếng cồng chiêng rộn ràng, một người trong trang phục lễ hội, ôm cây mía có buộc những bông lúa, trịnh trọng ra đồng. Dân làng có nhiệm vụ reo hò thật to để đánh thức hồn lúa đang ngủ trong kho hãy tỉnh dậy. Với những lời cầu khẩn thành tâm của mình, dân làng tin thần lúa khi tỉnh dậy sẽ mau chóng bay khắp cánh đồng, nhập hồn vào những hạt lúa mới gieo để chúng nảy mầm và lớn nhanh.

Cũng như các dân tộc Đông Nam Á khác, tín ngưỡng thờ mẹ lúa có từ rất lâu đời ở Việt Nam. Từ xa xưa, người Việt quan niệm, mẹ lúa là người đại diện cho toàn công xã. Về tín ngưỡng thờ mẹ lúa, có thể tìm đọc thêm trong cuốn Sáu mươi lễ hội truyền thống Việt Nam (1992). Tín ngưỡng thờ mẹ lúa cũng là một trong những biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực, cầu mong cho mọi vật sinh sôi, nảy nở. Đó chính là ngày hội xuống đồng (hội vào mùa) ở đồng bằng Bắc Bộ. Một minh họa điển hình ở làng Quắc Tước, Đồng Lạc, Yên Lập, Vĩnh Phúc. Vào ngày 1-5 âm lịch, người dân đã dậy rất sớm và kéo nhau đến thửa ruộng trước cửa đình làng để làm lễ xuống đồng. Làm lễ xong, những người được chọn đóng vai mẹ lúa sẽ bước xuống thửa ruộng đã cày sẵn, cắm những cây mạ đầu tiên trong tiếng reo hò của dân làng. Người dân còn lấy cây nêu cắm vào khoảng giữa mới cấy. Cây nêu được làm bằng một cành tre nhỏ còn đủ lá ngọn, trên treo những hình vòng tròn tượng trưng cho mặt trời, tua tre hình bông lúa. Sau khi làm nghi thức xong ở thửa ruộng, người dân ùa xuống ruộng và té nước, ném đất vào nhau để lấy may (7).


Lễ trình nghề nông và lễ rước mạ ở xã Bồ Sao, Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc diễn ra vào ngày 15-5 âm lịch. Ở nghi lễ trình nghề nông, có các vai: người cày bừa, người quẩy mạ cấy. Trong lễ rước mạ, người ta đặt bó mạ lên kiệu rước từ nhà ra đền, theo nghi lễ rước thần với tán lọng, cờ quạt cùng trống chiêng. Người chủ lễ rước dẫn đầu đoàn chức sắc (mặc áo the, khăn xếp), cung kính bước theo sau kiệu mạ. Đám rước tới sân đình được dân chúng chờ sẵn, hò reo chúc mừng. Người chủ trì nâng mâm mạ lên bàn thờ làm lễ, rồi đem con mạ xuống cấy ở thửa ruộng đã cày bừa sẵn trước đền (8).

Các dân tộc miền núi có lễ cúng cơm mới sau khi thu hoạch vụ mùa. Dân tộc Mường trong khi thu hoạch, họ chọn ba cây lúa nương trĩu bông, hạt mẩy. Họ đào cả gốc đem về treo cạnh bếp để giữ vía lúa. Ở Gia Lai, Kon Tum, dân tộc Ba na có lễ hội mừng lúa mới. Lễ hội được tổ chức đầu mùa thu hoạch, cầu mong ruộng nương càng nhiều thóc lúa.

Trong ngày lễ nông nghiệp, nhiều trò chơi dân gian được tổ chức. Trò tung cầu, cướp cầu thấy được tái hiện ở nhiều nơi. Quả cầu gồm hai trái: trái chiêm và trái mùa, to bằng sọ dừa, làm bằng gỗ và được sơn son thếp vàng. Người ta tin rằng, khi quả cầu tung lên mà lọt vào hố phía tây (lúa mùa) thì năm ấy được mùa lúa tháng mười, còn lọt vào hố phía đông (lúa chiêm) thì được mùa lúa tháng năm. Trò đúc tượng thấy ở nhiều nơi, trong đó tiêu biểu ở làng Phù Diễn, Tam Nông, Vĩnh Phúc. Ngày hội, một số trai tráng khỏe mạnh, cởi trần, đóng khố, trát bùn lên người rồi được đón về ngồi giữa sân đình. Mỗi người được choàng một mảnh chiếu và đặt lên đầu một bó mạ. Những người được đóng vai trong các nghề khác nhau cầm dụng cụ biểu diễn nghề nghiệp của mình. Cây lúa khổng lồ được tạo nên bởi những bó mạ thực, cùng sinh lực và ý chí con người (đóng thành tượng). Biểu tượng về vị phúc thần ấy, theo các nhà nghiên cứu văn hóa, vừa trở nên cụ thể (gần hiện thực cuộc sống), nhưng lại vừa mang ý nghĩa tượng trưng cầu phúc thần mùa màng… (9).

Có thể thấy, từ ngàn xưa, người Đông Nam Á đã tôn thờ thần lúa, coi vị thần này là linh hồn của mọi sinh hoạt trong cuộc sống. Các nhà nghiên cứu văn hóa đều thống nhất khi cho rằng: vòng đời của cây lúa đã làm nảy sinh hầu hết những lễ hội nông nghiệp của các dân tộc nơi đây. Mỗi quốc gia dân tộc Đông Nam Á đều có lễ hội thờ thần lúa với những nét độc đáo riêng, tạo nên sự thống nhất trong tính đa sắc màu của tín ngưỡng giữ hồn lúa ở khu vực Đông Nam Á.

_______________

1. Trần Bình Minh, Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á, Hà Nội, 2000, tr.52.

2. Ngô Văn Doanh, Vũ Quang Thiện, Phong tục các dân tộc Đông Nam Á, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1997.

3. Mai Ngọc Chừ, Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998, tr.127.

4. Phua Anuman Rajadhou, Văn hóa dân gian Thái Lan, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1989.

5. Viện Đông Nam Á, Lịch sử Lào, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1998, tr.187.

6. Nhiều tác giả, Văn hóa lễ hội của các dân tộc ở Đông Nam Á, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1992.

7, 8, 9. Thạch Phương, Lê Trung Vũ, Sáu mươi lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 2008.


Nguồn: Tạp chí VHNT số 331, tháng 1-2012
Tác giả: Bùi Thị Ánh Vân 

VĂN HOÁ LÚA NƯỚC Ở ĐÔNG NAM Á VÀ KHU VỰC



VĂN HOÁ LÚA NƯỚC
Ở ĐÔNG NAM Á VÀ KHU VỰC
Trần Ngọc Thêm


Ít nhất là từ 5-7 ngàn năm nay, cây lúa nước đã trở thành nguồn lương thực chính của cư dân Đông Nam Á. Nó đã tạo nên một nền văn hoá và văn minh lúa nước với bề dày lịch sử hết sức phong phú. Từ đây, nó đã tỏa ra khu vực lân cận, đặc biệt là Đông Bắc Á.

Từ vùng lưu vực sông Dương Tử, cây lúa nước và văn hoá lúa nước đã du nhập lên vùng lưu vực sông Hoàng Hà (khoảng trên 1 ngàn năm trước CN). Rồi từ lưu vực sông Hoàng Hà, cây lúa nước và văn hoá lúa nước đã du nhập sang bán đảo Korea (khoảng tk. VIII trCN), rồi sang Nhật Bản.

Trong loạt video-clip này, vanhoahoc.edu.vn xin giới thiệu với bạn đọc cảnh sinh hoạt lúa nước và những nghi thức văn hoá lúa nước của một số dân tộc.

1. Cảnh cấy lúa của người Lào



2. Cánh đồng lúa ở Campuchia



3. Cảnh nhổ mạ ở Thái Lan



4. Lễ tịch điền ở Thái Lan (Viel snaeh Piek kdei, 2008)



5. Cảnh cấy lúa ở Hàn Quốc



6. Lễ xuống đồng cấy lúa truyền thống ở Hiroshima, Nhật Bản:

Tổ chức hàng năm, vào ngày chủ nhật thứ ba trong tháng Năm ở vùng nông thôn miền núi phía bắc thành phố Hiroshima.



7. Lễ xuống đồng cấy lúa truyền thống ở Shiga, Nhật Bản:

Tổ chức hàng năm, vào ngày chủ nhật thứ tư trong tháng Năm ở vùng nông thôn gần ngôi đền Mikami ở Shiga: bắt đầu vào khoảng 10 giờ sáng bằng một nghi lễ Thần đạo, sau đó những thanh niên nam nữ trong những trang phục nhiều màu rực rỡ sẽ tiến hành nghĩ lễ cấy lúa trong lời ca, tiếng trống, và những điệu múa truyền thống. Lúa nước ở đây được gọi là  Yuki Saiden (悠紀斎田記念田), từng được dùng làm lúa tiến cho Thiên Hoàng Showa Hirohito, lên ngôi năm 1928.



8. Lễ xuống đồng cấy lúa truyền thống ở Taga Taisha, Nhật Bản:

Tổ chức hàng năm, vào ngày thứ bảy đầu tiên trong tháng Sáu ở vùng Taga Taisha. Nghi lễ cấy lúa được thực hiện với 70 nữ sinh phổ thông trung học địa phương tại thửa ruộng thiêng của ngôi đền Thần đạo.

ẢNH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI PHONG TRÀO DÂN TỘC Ở ĐÔNG NAM Á TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA


ẢNH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG TÂY
ĐỐI VỚI PHONG TRÀO DÂN TỘC Ở ĐÔNG NAM Á
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
TS. Đinh Thị Dung
 Thế kỷ XX chứng kiến một sự thay đổi kỳ diệu của phong trào dân tộc ĐNA dưới ảnh hưởng nhất định của phương Tây, thời kỳ mà các phong trào dân tộc ở đây mang một sắc thái mới, đi theo một trào lưu mới - trào lưu dân chủ tư sản dưới tác động của chủ nghĩa tư bản phương Tây trong quá trình thực dân hóa.


Đối với khu vực Đông Nam Á (ĐNA), thế kỷ XX có một vị trí đặc biệt.
Không một quốc gia nào của khu vực Đông Nam Á trong thế kỷ XX bảo vệ  được độc lập dân tộc chỉ dựa vào truyền thống vốn có.
Thế kỷ XX chứng kiến một sự thay đổi kỳ diệu của phong trào dân tộc ĐNA dưới ảnh hưởng nhất định của phương Tây, thời kỳ mà các phong trào dân tộc ở đây mang một sắc thái mới, đi theo một trào lưu mới - trào lưu dân chủ tư sản dưới tác động của chủ nghĩa tư bản phương Tây trong quá trình thực dân hóa.
Qua khảo sát ảnh hưởng của phương Tây đối với phong trào dân tộc ở ĐNA có thể góp phần nhận diện được nhiều đặc điểm của văn hóa ĐNA trước và sau khi có sự thâm nhập đầy tính cưỡng bức của văn hóa, văn minh phương Tây.
1. Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử dân tộc hiện đại, phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa dân tộc bắt đầu từ cội nguồn châu Âu, từ những tư duy cổ điển về xã hội con người với xu hướng tập hợp lại xung quanh các hình thức khác nhau về bản sắc và trong một hình thức cộng đồng từ cuối thời trung đại, để hình thành nên một bản sắc cộng đồng. Tiêu biểu cho các cộng đồng dạng này là Hy Lạp và La Mã – quốc gia được hình thành từ nhiều cộng đồng địa phương (các thành bang) và các nguồn nhập cư khác được ổn định qua các biện pháp hợp hiến…
Từ quan điểm này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nguồn gốc của phong trào dân tộc, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Đông Nam Á khởi nguồn từ  việc tiếp xúc và đối kháng với phương Tây trong thời cận đại [Clive J.Christie[1], Mary Somers Heidhues[2]…].
Quan điểm trên có cơ sở khoa học của nó, tuy nhiên chưa quan tâm đến dân tộc và chủ nghĩa dân tộc mang màu sắc Á Đông, đặc biệt là ở khu vực ĐNA. Về điều này, Đặng Nghiêm vạn đã nêu rõ khi phân tích định nghĩa dân tộc của I. V. Stalin: “Khi bàn về sự hình thành hình thức cộng đồng dân tộc tư bản chủ nghĩa, tác giả đã mặc nhiên phủ nhận một thực tế lịch sử là đã tồn tại các hình thức dân tộc tiền tư bản chủ nghĩa.[3]
Quả vậy, trước khi tiếp xúc với phương Tây, khoảng thời gian từ thế kỷ X - XV là thời kỳ hình thành những vương quốc phong kiến độc lập kiểu phương Đông ở ĐNA. Tiến trình lịch sử của ĐNA đã chứng minh điều đó. Một số quốc gia như Việt Nam, Miến Điện, Xiêm… đều có ý thức dân tộc rất mạnh mẽ và có ý thức sâu sắc về văn hóa dân tộc.
Từ những năm đầu công nguyên, cuộc đấu tranh bền bỉ chống Bắc thuộc của Việt Nam là một bằng chứng về phong trào dân tộc có tính cội nguồn của một đại diện ở ĐNA. Sau hơn 1000 năm Việt Nam đã khôi phục được độc lập chủ quyền bằng sức mạnh của cả một dân tộc. Chính sự liên kết trong trường kỳ đấu tranh đã làm cho ý thức cộng đồng thêm mạnh mẽ và là cơ sở của ý thức dân tộc. Bản sắc dân tộc Việt được  bảo tồn qua nghìn năm bị đô hộ, và Việt Nam bước vào thế kỷ X với tư cách của một dân tộc chiến thắng. Thực tế, đây là trường hợp đặc biệt vì trên thế giới hầu như không có một trường hợp nào mất nước cả nghìn năm mà dân tộc đó lại khôi phục được độc lập dân tộc. Sauk hi độc lập, Việt Nam càng có ý thức sâu sắc hơn về một quốc gia dân tộc đa tộc người mà tộc người Việt đóng vai trò chủ thể, đại diện.
Với Miến Điện, sau khi lập nên nước Pagan (1044), người Miến đã xây dựng và phát triển đất nước này trở nên cường thịnh cho đến khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên thất bại. Miến Điện lần lượt bị người Shan, Môn chiếm đóng và bị phân liệt, dân tộc Miến đã trường kỳ đấu tranh để khôi phục độc lập và đến giữa thế kỷ XVI mới tái thống nhất, đó cũng là quá trình đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên ý thức quốc gia dân tộc của người Miến Điện.
Ý thức về quốc gia dân tộc của các nước ĐNA còn thể hiện trong mối quan hệ với các nước bên ngoài khu vực thời kỳ tiền phương Tây. Trường hợp Việt Nam qua sách lược thần phục giả danh - độc lập thực tế trong quan hệ với Trung Quốc là một minh chứng thuyết phục. Đây là một ứng xử ngoại giao đặt quyền lợi quốc gia và độc lập dân tộc lên trên mọi toan tính chính trị.
Ý thức dân tộc và phong trào dân tộc ở các nước ĐNA còn được vun đắp qua việc bảo tồn các giá trị văn hóa của cơ tầng ĐNA trong quá trình tiếp xúc và giao lưu với Trung Quốc, Ấn Độ trên lĩnh vực văn hóa. Rõ ràng những dấu ấn ảnh hưởng Trung Hoa và Ấn Độ là không thể phủ nhận, song sức mạnh bản địa ĐNA của văn hóa khu vực lại làm nên cái đặc sắc của văn hóa khu vực này.
Như vậy, quốc gia dân tộc với chủ nghĩa dân tộc và phong trào dân tộc ĐNA có nguồn gốc từ rất sớm, khi khu vực này chưa chịu ảnh hưởng của phương Tây. Ý thức dân tộc đã bắt nguồn từ cộng đồng có chung khu vực cư trú, tiếng nói, đặc trưng văn hóa… Phong trào dân tộc đi từ sự cố kết cộng đồng trong đấu tranh với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội để tồn tại và phát triển. Qua nhiều thế kỷ, các dân tộc ở ĐNA đã xây dựng được những vương quốc thống nhất về văn hóa, có một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần có bản sắc. Phương Tây xâm lược đã phải trải qua một quá trình chinh phục kéo dài hàng mấy thế kỷ như ở Indonesia hay Miến Điện… bởi sự kháng cự của các phong trào dân tộc bền bỉ kiên cường ở đây. Quả thật, nếu không có tinh thần dân tộc để dẫn dắt các phong trào dân tộc trong  những hoàn cảnh đối diện với làn sóng xâm nhập từ bên ngoài, thì chúng ta cũng dễ mất đi cái gốc truyền thống bản địa.
         2. Ý thức về dân tộc, về nền tảng văn hóa bản địa cũng chính là cơ sở cho các phong trào dân tộc phát triển mạnh mẽ ở ĐNA dưới tác động của văn minh phương Tây trong buổi đầu thời kỳ cận đại.
            Khi có sự xâm lược của phương Tây, tại ĐNA đã bùng lên những phong trào dân tộc mạnh mẽ, đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, đồng nghĩa với việc bảo vệ vương triều phong kiến đang cai trị. Nước đầu tiên rơi vào ách thực dân là Indonesia. Từ những năm 20 của thế kỷ XVII khi Hà Lan chiếm được một số vùng ở Indonesia, nhân dân ở Indonesia đã lập tức vùng lên đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Đó là cuộc đấu tranh của nhân dân Banda từ 1621, khởi nghĩa của Surapatti, Diponegoro… Cũng như ở Indonesia, các dân tộc ở ĐNA đều bắt đầu phong trào dân tộc bằng những cuộc đấu tranh vũ trang tự phát hoặc chiến tranh du kích. Có thể tìm thấy những ví dụ tương tự trong các cuộc nổi dậy của các hoàng tử và nhà sư Miến Điện, khởi nghĩa của hoàng thân Sivotha ở Campuchia, khởi nghĩa Ong Kẹo ở Lào, phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi ở Việt Nam… “Những phong trào này được dẫn dắt bởi các giai cấp lãnh đạo cũ… thể hiện phản ứng bản năng và cuồng nhiệt trước sự xâm nhập của phương Tây…”[4].
            Các phong trào dân tộc ở ĐNA từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX với nền tảng là chủ nghĩa yêu nước phát triển thành chủ nghĩa chống thực dân, còn chưa chịu tác động bởi những ảnh hưởng tư tưởng phương Tây, chưa có tổ chức trên cơ sở một  hệ tư tưởng khoa học về chủ nghĩa dân tộc hiện đại theo kiểu châu Âu, với các mục tiêu kinh tế và chính trị rõ ràng. Đây là một trong những nguyên dân dẫn đến sự chưa thành công của hầu hết các phong trào giải phóng dân tộc.
            Sự chiến thắng của thực dân phương Tây lại đem đến cho các nước ĐNA những nhận thức mới. Bên cạnh sự nhận ra sức mạnh của khoa học – kỹ thuật phương Tây, ĐNA cũng dần nhận thức được những tư tưởng tiến bộ của phương Tây, trong đó có những học thuyết xã hội tiến bộ về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc. Các cuộc cách mạng tư sản ở phương Tây thắng lợi đã giải phóng con người về mặt ý thức và thân phận thoát khỏi sự kìm chế của chế độ phong kiến độc đoán, tuyên bố về quyền con người, tự do dân chủ cá nhân và hình thành các quốc gia dân tộc. Đó là những tư tưởng của John Stuart Mill, Alexis Tocqueville, Mazzini… Và rõ ràng khi phương Tây sang ĐNA,  những tư tưởng, quan điểm mới mẻ về dân tộc, về chủ nghĩa dân tộc cũng sẽ theo vào và đem lại một luồng gió mới cho phong trào dân tộc ở ĐNA. Vì thế, ảnh hưởng của phương Tây đối với phong trào dân tộc còn cần được nhìn dướí góc độ văn hóa, thấy được ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với phong trào dân tộc Đông Nam Á trong thế kỷ XX.
Quả vậy, trước thế kỷ XX, các phong trào dân tộc chống thực dân ở ĐNA chủ yếu nhấn mạnh vào các giá trị truyền thống mang tính bản sắc. Đó là sự đoàn kết cộng đồng, tinh thần yêu nước v.v… Đến đầu thế kỷ XX phong trào dân tộc bắt đầu có những biến chuyển quan trọng, ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa không chỉ tập trung dựa vào các giá trị truyền thống bản địa, mà bắt đầu hướng ra bên ngoài, tiếp thu các tư tưởng mới từ phương Tây. Nhiều trí thức tiên tiến ĐNA đã  nhận ra sự luẩn quẩn của con đường cũ mà phong  trào dân tộc khu vực đã đi, nhất là từ khi nhận thức được sức mạnh của cải cách, duy tân của Nhật và sự thắng lợi của Nhật trong chiến tranh với Nga vào năm 1905.
Trong quá trình thâm nhập của phương Tây, dưới tác động hai mặt của chính sách thực dân, các nước ĐNA có sự biến đổi khá toàn diện.
            Sự biến đổi về giáo dục, ngôn ngữ theo hướng xã hội hóa là một thực tế ở ĐNA. Các trường học hiện đại đã được mở và phát triển nhanh chóng ở nhiều thuộc địa, dù cho người phương Tây có những vị trí cao nhất trong các trường thì một số người bản địa cũng được theo học và tiếp cận khoa học kỹ thuật tiên tiến của phương Tây. Nền văn hóa và giáo dục phương Tây về mặt khách quan đã đưa lại những kết quả ngoài mong muốn của chính phủ thực dân, đó là một tầng lớp trí thức mới, bộ phận này sẽ tiếp nhận các yếu tố văn hóa tư tưởng phương Tây, về dân tộc tự quyết, tự do, bình đẳng, về quốc gia dân tộc từ nhà trường của thực dân hay ở chính quốc. Chính bộ phận này sẽ vượt qua được những giới hạn mà trí thức cũ bị đóng khung xơ cứng, để hướng tới mục tiêu phương hướng mới cho phong trào dân tộc. Họ mong muốn đưa vào nước mình  các thiết chế chính trị - kinh tế phương Tây, đồng thời phủ nhận quyền cai trị của phương Tây trên đất nước họ.
            Ý thức về dân tộc phát triển mạnh hơn khi một số người da trắng sang định cư ở ĐNA. Tại Philippine việc cải cách mở rộng các ban ngành trong chính phủ thực dân tạo điều kiện cho nhiều người Phi tham gia vào việc hành chính của nước mình ở các cấp cơ sở Những người có học trẻ tuổi có cơ hội học tập làm việc với nhiều người ở các vùng miền khác nhau, cùng chung thân phận và điều này đã thức tỉnh ý thức dân tộc ở Philippine. Từ năm 1861, ở Philippine một đạo luật về giáo dục đã được ban hành, quy định ít nhất mỗi tỉnh phải có 1 trường tiểu học cho các bé trai và 1 trường cho các bé gái. Ước tính đến cuối thế kỷ XIX tại Philippine có khoảng 2150 trường công lập với 200000 học sinh[5]. Phong trào dân tộc theo xu hướng mới ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiên tiến của phương Tây ở Philippine là phong trào dẫn đầu Đông Nam Á. Từ cuối thế kỷ XIX, các trí thức Philippine từ phương Tây trở về đã khuấy động phong trào dân tộc Phi bằng những cuộc đấu tranh chống Tây Ban Nha đòi tự do, dân chủ, độc lập như José Rizal, Andres Bonifacio… Đầu thế kỷ XX, sau khi nước cộng hòa Philippine được thành lập, Hoa Kỳ đã can thiệp vào đất nước này và năm 1901 Hoa Kỳ chính thức đặt Phi dưới sự bảo hộ của mình, bộ phận trí thức ưu tú ở đây bắt đầu tiếp xúc với lực lượng chiếm đóng mới, chuẩn bị đấu tranh cho nền độc lập tương lai của Philippine.
            Đầu thế kỷ XX, trí thức ở Indonesia, cũng thành lập lương tri xãhiệp hội sinh viên Indonesia…; trí thức Miến Điện cũng thành lập các tổ chức tương tự, Việt Nam thì nổi lên Duy Tân hội, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục… Dù có những khác biệt trong phong trào dân tộc ở các nước, song các tổ chức và hoạt động của phong trào dân tộc Đông Nam Á đều có chung mục đích là tuyên truyền ý thức dân tộc – dân chủ, quyền độc lập quốc gia dân tộc và giành lại chủ quyền đất nước từ thực dân. Trong các phong trào dân tộc ở ĐNA đầu thế kỷ XX, lần đầu tiên người ta nói đến văn minh tư sản là “công nghiệp mở trí khôn cho dân”, hô hào học cái mới của Âu - Mỹ, Nhật. Ở đây cái cốt lõi của khuynh hương dân tộc trong phong trào dân tộc là học khoa học kỹ thuật phương Tây. Thực chất của phong trào dân tộc dưới tác động của phương Tây là độc lập dân tộc gắn liển với cải cách xã hội.
            Ý thức dân tộc của ĐNA còn được củng cố hơn bằng những phương tiện truyền thông hiện đại của văn minh phương Tây: máy in, sách báo, điện tín, điện thoại… Số người biết đọc, biết viết ngôn ngữ bản địa đã góp phần phổ biến những tư tưởng mới. Ở Indonesia tiếng Malay đã trở nên phổ biến và trở thành quốc ngữ. Từ cuối thế kỷ XIX văn học quần chúng và báo chí đã tuyên truyền phổ biến rộng rãi những ý tưởng về hiện đại hóa về chủ  nghĩa dân tộc và sự giải phóng dân tộc. Điều này cũng xảy ra ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, văn chương đại chúng bùng nổ với “khoảng 10.000 tựa sách từ dày tới mỏng được xuất bản từ năm 1923-1944, bên cạnh hàng trăm ấn phẩm định kỳ”[6]. Báo chí bản địa đóng vai trò là cơ quan phát ngôn cho phong trào dân tộc ở các thuộc địa. Chữ quốc ngữ ở Việt Nam nhanh chóng thành phương tiện chuyển tải tới đại chúng những vấn đề mà phong trào dân tộc quan tâm như truyền thống và hiện đại, vấn đề đạo đức xã hội, vai trò nữ giới…, và góp phần xóa mù chữ ở Việt Nam.
            Ở Indonesia, tổ chức dân tộc chủ nghĩa đầu tiên nằm trong trường Đại học duy nhất lúc bấy giờ - trường Đại học Y Khoa ở Batavia - với hy vọng về sự khai sáng, tạo những cơ hội cho nữ giới… “những khởi đầu nho nhỏ này, cùng với việc đặt nặng vấn đề cải cách và hợp tác với thế lực thực dân, đã gieo mầm mống của chủ nghĩa dân tộc lên toàn Indonesia, mà sau này sẽ loại bỏ chế độ bảo hộ của châu Âu”[7].
            Nhìn chung, ĐNA đã đặc biệt quan tâm đến các ý tưởng, giáo dục, cải cách ở châu Âu và phong trào dân tộc ở đây đã có một nền tảng văn hóa khác trước. Ngay trong lĩnh vực tôn giáo người ta cũng đã “tìm cách gạt bỏ những mê tín và những điều mà trong thực tế nhân dân bản xứ đã đưa thêm vào”[8]. Để tăng cường sức mạnh cho dân tộc, người ta đã đưa gần như toàn bộ các lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần truyền thống ra để thảo luận nhằm đổi mới cách tân.
            3. Ảnh hưởng của phương Tây góp phần tạo nên những nhân tố vật chất và tinh thần quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử Đông Nam Á. Theo nhận định một nhà nghiên cứu nước ngoài thì thế kỷ XX “cả lục địa châu Á  đang tự nhận thức về mình” và đó là “sự vùng lên của Đông Nam Á”[9]. Vũ Dương Ninh cũng cho rằng “Sựvùng lên hay thức tỉnh ở đây nên được hiểu là sự xuất hiện của yếu tố tư sản hơn là sự gia tăng số lượng cuộc đấu tranh”[10]. Đây là một trong nhiều giá trị của phương Tây chỉ có thể đến với phong trào dân tộc qua những tiếp xúc văn hóa giữa phương Tây và Đông Nam Á. Cuộc đấu tranh của nhân dân ĐNA ngoài mục tiêu vì độc lập dân tộccòn xuất hiện yếu tố dân chủ. Hai mục tiêu này là phương hướng hành động cho phong trào dân tộc Đông Nam Á suốt lịch sử cả thời hiện đại. Bên cạnh đó là việc bảo vệ những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, các nước Đông Nam Á vẫn giữ được đạo Phật, đạo Hồi. Phật giáo ở Thái Lan, Miến Điện, Hồi giáo ở Indonesia, Mã Lai đều có vai trò quan trọng trong việc tập  hợp dân tộc chống thực dân bảo vệ văn hóa dân tộc.
Sau tháng Tám năm 1945, Đông Nam Á là nơi đầu tiên trong hệ thống các nước thuộc địa trên toàn cầu thành lập được các quốc gia độc lập. Phong trào dân tộc đã thắng lợi hoàn toàn. Chính vì thế Đông Nam Á là khu vực đi đầu trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và dân chủ. Sự phục hưng của Đông Nam Á do nhiều nhân tố chi phối, một trong những nhân tố đó là văn hóa, giáo dục phương Tây, môi trường mà những trí thức dân tộc chủ nghĩa trưởng thành. Ảnh hưởng không nhỏ của những học thuyết chính trị, phương pháp tranh đấu trên các lĩnh vực của châu Âu, và cuối cùng là những khái niệm về quốc gia dân tộc, lý tưởng của nền dân chủ tư sản phương Tây, công cuộc hiện đại hóa xã hội, phong trào dân tộc Đông Nam Á đã có những thành công nhất định.
2008


[1] Clive J. Christie (2000), Lịch sử Đông Nam Á hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, trang 16 – 17.
[2] Mary Somers Heidhues (2007), Lịch sử phát triển Đông Nam Á, Nxb Văn hóa Thông tin, trang 160 – 161.
[3] Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM, trang 19.
[4] D.G.E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, trang 1172 - 1173
[5] Nguyễn Văn Nam (2008),  Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á, ASEAN, Nxb Hà Nội, trang  331.
[6] Mary Somers Heidhues (2007), Lịch sử phát triển Đông Nam Á từ hình thành đến hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin, trang  163.
[7] Mary Somers Heidhues (2007), Lịch sử phát triển Đông Nam Á từ hình thành đến hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin, trang  166.
[8] Clive J. Christie (2000), Lịch sử Đông Nam Á hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, trang 16 – 31.
[9] D.G.E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, trang 1172 - 1037
[10] Vũ Dương Ninh (Cb), Đông Nam Á tháng Tám năm 1945, Nxb Thế Giới, trang 51.
 (Đã báo cáo trong Hội thảo khoa học: Ảnh hưởng của văn hóa Âu- Mỹ đối với thế giới và Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa do ĐH KHXH-NV Hà Nội và ĐHKHXH-NV Tp.HCM tốc chức)