Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

CHỦ THỂ VĂN HÓA VIỆT NAM


CHỦ THỂ VĂN HÓA VIỆT NAM
* Hệ tọa độ ba chiều
Giống như một điểm trong không gian, vị trí của một nền văn hóa trong xã hội phải được xác định bởi một hệ tọa độ. Một hệ tọa độ ba chiều: Thời gian văn hóa, Không gian văn hóa và Chủ thể văn hóa.
Thời gian văn hóa được xác định từ khi một nền văn hóa hình thành cho đến khi tàn lụi. Nói chung, thời gian văn hóa không thể có ranh giới rạch ròi, nó là một khái niệm mờ. Thời điểm khởi đầu của một nền văn hóa là do thời điểm hình thành dân tộc (chủ thể văn hóa) quy định.
Không gian văn hóa có phần phức tạp hơn : bởi lẽ văn hóa có tính lịch sử, cho nên trong văn hóa đã có cả yếu tố thời gian. Vì có tính thời gian cho nên không gian văn hóa liên quan đến lãnh thổ nhưng không đồng nhất với không gian lãnh thổ. Nó bao quát tất thảy những vùng lãnh thổ mà ở đó dân tộc đã tồn tại qua các thời đại. Do vậy, không gian văn hóa bao giờ cũng rộng hơn không gian lãnh thổ. Không gian văn hóa cũng là một khái niệm mờ : không gian văn hóa của hai dân tộc ở cạnh nhau thường có phần chồng lên nhau, có miền giáp ranh. Để có được hình dung đầy đủ về không gian văn hóa của một dân tộc cụ thể, cần nắm được nguồn gốc và quá trình hình thành của dân tộc. Nghĩa là, cả thời gian văn hóa lẫn không gian văn hóa đều phụ thuộc vào việc xác định trục thứ ba của hệ tọa độ - chủ thể văn hóa.
* Nguồn gốc dân tộc Việt Nam - chủ thể văn hóa
Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu gần đây, người ta đã chia nhân loại thành hai khối quần cư lớn: Phi-Âu và Úc-Á , đó cũng chính là hai trung tâm hình thành chủng tộc cổ xưa nhất của loài người : Trung tâm phía Tây ở miền Đông-Bắc Phi và Tây-Nam Á, và Trung tâm phía Đông ở miền Đông Nam Á.Trung tâm phía Tây có hai đại chủng : Âu (Europeoid) và Phi (Negroid). Trung tâm phía Đông cũng có hai đại chủng : Á (Mongoloid) và Úc, hay phương Nam (Australoid, tiếng La-tinh Austra = phương Nam). Hai trung tâm này xuất hiện không đồng thời : trung tâm phía Tây có trước. Không loại trừ khả năng là từ đó, loài người nguyên thủy đã tiến dần sang phía Đông để rồi phát triển thành trung tâm thứ hai ở đây.
Như vậy, có thể nói rằng chủ thể của văn hóa Việt Nam ra đời : (a) trong phạm vi của trung tâm hình thành loài người phía Đông: và (b)trong khu vực hình thành của đại chủng phương Nam. "Ngay từ buổi bình minh của lịch sử - Ja. V. Chesnov (1976) viết - Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành loài người. Đây chính là địa bàn hình thành đầu tiên của đại chủng phương Nam".
Những kết quả khai quật ở hàng loạt địa điểm khác nhau như hang động Bình Gia (Lạng Sơn), núi Đọ (Thanh Hóa), vùng Hàng Gòn - Dầu Giây (Đồng Nai)... đã tìm thấy những răng hàm của người vượn cổ, những công cụ đá như mảnh tước, nạo thô, rìu tay,... có niên đại vào khoảng 30-40 vạn năm tr. CN (sơ kì đồ đá cũ), tức là chính vào khoảng thời gian hình thành trung tâm phía Đông- cái nôi thứ hai của loài người. Muộn hơn, khi người nguyên thủy phân hóa dần thành các chủng tộc, sống trên địa bàn Đông Dương là những người thuộc đại chủng phương Nam (các chủng Negrito, Melanésien). Vào khoảng gần 20.000 năm tr. CN. mực nước biển ở các đại dương đã hạ xuống tới mức thấp nhất (thấp hơn mực nước biển hiện nay khoảng 100-200 mét), bán đảo Đông Dương và vùng các quần đảo trở nên gần như nối liền nhau; ở vùng châu thổ sông Cửu Long đã hình thành một "cầu lục địa". Nhờ đó, những dòng người và động vật có điều kiện di chuyển từ đất liền ra các hải đảo, rồi đi tiếp tới vùng lục đia úc châu và những nơi xa xôi khác.
Trên nền của những sự kiện trên, trong những giai đoạn tiếp theo, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể được hình dung theo ba giai đoạn :
a) Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dòng người thuộc chủng Mongoloid từ vùng Tây Tạng thiên di về phía đông nam, tới vùng nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Melanésien bản địa (thuộc đại chủng úc), dẫn đến kết quả là sự hình thành chủng lndonésien (còn gọi là cổ Mã Lai). Từ đây lan tỏa ra, người Indonésien cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. Đó là một vùng rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử, phía tây tới bang Assam của ấn Độ, phía đông tới vùng quần đảo Philippin và phía Nam tới các hải đảo lnđônêxia.
b) Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng gần 5.000 năm về trước), tại khu vực mà hiện nay là Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương (từ phía nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng Hà), trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình lndonésien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ phía Bắc, đã hình thành một chủng mới là chủng Nam Á (Austro-asiatique). Với chủng Nam-Á, các nét đặc trưng Mongoloid lại càng nổi trội, do vậy nó được xếp vào ngành Mongoloid phương Nam.
c) Thời kì sau đó, chủng Nam-Á được chia tách thành một loạt các chủng tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng danh từ Bách Việt. Tuy "Bách" chỉ là một cách nói biểu trưng, nhưng đó thực sự là một cộng đồng cư dân hùng hậu, bao gồm nhiều tộc người Việt như  Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt sinh sống khắp khu vực phía Nam sông Dương Tử cho tới tận bắc Trung bộ ngày nay, họp thành những khối cư dân lớn (mà ban đầu mỗi khối có một tiếng nói riêng) như Môn-khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao. Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các dân tộc cụ thể (cùng với sự chia tách ngôn ngữ), trong đó người Việt đã tách ra từ khối Việt- Mường chung vào khoảng cuối thời Bắc thuộc (tk. VII-VIII).
Trong khi đó, ở phía Nam dọc theo dải Trường Sơn, vẫn là địa bàn cư trú của người lndonésien. Cuộc sống biệt lập khiến cho khối người này lưu giữ được nhiều hơn những đặc điểm của truyền thống văn hóa cổ gần gũi với cư dân các hải đảo. Đó là tổ tiên của người Chàm, Raglai, Êđê, Giarai, Churu, v.v. Ngôn ngữ của khối người (mà Chàm có thể xem là đại diện) này (gọi là Nam Đảo, Austronésien) cũng duy trì được nhiều nét tương đồng với ngôn ngữ của cư dân các hải đảo. Kết hợp các cứ liệu nhân chủng học với các cứ liệu ngôn ngữ học, có thể sơ bộ hình dung bức tranh về nguồn gốc các dân tộc Đông Nam Á như sau :
 Chủng INDONÉSIEN
(= Cổ Mã Lai, Đông Nam Á tiền sử)
AUSTRONÉSIEN(nói ngôn ngữ Nam Đảo)
Chủng NAM Á(= Austro-asiatique; Bách Việt)
Nhóm CHÀM
Nhóm
MÔN - KHMER
Nhóm
VIỆT - MƯỜNG
Nhóm
TÀY - THÁI
Nhóm
MÈO - DAO
Chàm
Raglai
Êđê
Churu
Mnông
Khmer
Kơho
Xtiêng
........
Việt
Mường
Thổ
Chứt
Tày
Thái
Nùng
Cao-lan
.........
Mèo
Dao
Pà-thẻn
Bảng 4 : Sự hình thành các dân tộc Đông Nam Á
Như vậy, người Việt và tuyệt đại bộ phận các dân tộc Việt Nam đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc chung là nhóm loại hình Indonésien, chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất - một tính thống nhất trong sự đa dạng - của con người và văn hóa Việt Nam, và rộng hơn là toàn vùng Đông Nam Á. Trong sự đa dạng chung đó lại luôn có tính thống nhất bộ phận : của người Việt-Mường và các dân tộc cùng gốc Nam-Á - Bách Việt,...

VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á MỘT NỀN VĂN HÓA THỐNG NHẤT TRONG SỰ ĐA DẠNG

N HÓA ĐÔNG NAM Á MỘT NỀN VĂN HÓA THỐNG NHẤT TRONG SỰ ĐA DẠNG


Quá trình nhận biết về khu vực văn hóa Đông Nam Á

Khu vực Đông Nam Á từ xưa, trong các sách cổ của Ấn Độ đã được nói đến với những cái tên như Suvarnabhumi (đất vàng) hay Suvarnadvipa (Đảo vàng), người Trung Hoa thì gọi là Nam Dương, tương tự người Nhật Bản củng dùng từ Nan Yo để chỉ Đông Nam Á, tức Nam Dương như Trung Hoa, người Ả Rập gọi là Zabag, còn người Hy Lạp, La mã từ giữa thế kỷ II TCN cũng gọi là Chryse (đất vàng). Như vậy là từ xa xưa, thế giới đã biết đến khu vực văn hóa Đông Nam Á. Sở dĩ như vậy là vì tầm quan trọng về mặt vị trí địa lý của khu vực Đông Nam Á, vốn đã được chú ý đến từ rất lâu. Đông Nam Á thường được gọi là “ngã tư đường”, “hành lang” hay “cầu nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và Địa Trung Hải.

Tuy vậy, từ trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lí - lịch sử - văn hóa - chính trị riêng biệt. Bởi nó đã bị lu mờ giữa hai nền văn minh phát triển rất rực rở là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Nhưng kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay, khu vực văn hóa Đông Nam Á ngày càng được công nhận rộng rải trong khoa học. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc dựng lại các vương triều, các nền văn minh cổ ở đây, mà Đông Nam Á đang từng bước được xem xét như một khu vực lịch sử - văn hóa – kinh tế - chính trị thật sự.

Người ta đã khẳng định được rằng: trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ thì cư đân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản địa khá phát triển. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, một nền văn hóa Đông Sơn phát huy hết sức rực rở mà biểu tượng là những chiếc trống đồng rất nổi tiếng được tìm thấy ở khắp Đông Nam Á. Đông Nam Á cũng là nơi thuần dưởng các loài thú sớm nhất thế giới (trâu, bò, chó).

* Văn hóa Đông Nam Á, một nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng

- Tính thống nhất, tính khu vực của Đông Nam Á trước hết được thể hiện ở chủ thể của văn hóa Đông Nam Á. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử _ Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành loài người, đây là địa bàn hình thành của đại chủng phương Nam (Australoid).

Vào khoảng 10.000 năm trước (thời đại đồ đá giữa), có một dòng người thuộc đại chủng Mongoloid từ phía dảy Himalaya thiên di về hướng Đông Nam, tới vùng Đông Nam Á thì dừng lại và hợp chủng với cư dân Melanesien bản địa (thuộc đại chủng Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien (cổ Mã Lai _ Đông Nam Á tiền sử). Với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, nhỏ, thấp. Từ đây chủng này lan tỏa, họ có mặt trên toàn bộ Đông Nam Á cổ đại. Đông Nam Á cổ đại được xác định trên một khu vực địa lý rộng lớn. Ngoài 11 nước Đông Nam Á hiện nay thì Đông Nam Á cổ đại được xác định phía Bắc gồm toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc (phía Nam sông Dương Tử), đảo Đài Loan, một số lảnh thổ ở Đông Bắc Ấn Độ, quần đảo Andaman và Nicoba trong vịnh Bengal, châu Đại Dương và cả đảo Madagasca ở Đông Nam châu Phi (tổ tiên chính là người Mã Lai di cư sang).

Chính mối liên hệ này đã tạo nên sự thống nhất cao độ của khu vực văn hóa Đông Nam Á. Sự thống nhất do cùng một cội nguồn là một loại hình Indonesien, chính điều đó đã tạo ra bản sắc chung cho văn hóa Đông Nam Á.

- Tính thống nhất về mặt văn hóa của khu vực và tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao hàm trong nó rất nhiều thành tố cả về vật chất lẩn tinh thần của văn hóa Đông Nam Á. Đơn nhiên, trong quá trình phát triển, văn hóa Đông Nam Á đã tiếp thu nhều yếu tố mới từ bên ngoài mà tiêu biểu nhất là từ Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây. Nhờ sự giao lưu này, văn hóa Đông Nam Á đã đạt được những thành tựu mới mẻ trong quá trình phát triển của mình. Sau đây là một số điểm tiêu biểu được thể hiện:

Về ngôn ngữ - chử viết: Sự đa dạng của ngôn ngữ được thể hiện ở chổ các quốc gia Đông Nam Á hiện có tới hàng chục, thậm chí hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Như ở Indonesia có đến 200 ngôn ngữ dân tộc khác nhau cùng tồn tại; ở Philippin củng có tới 80 ngôn ngữ dân tộc khác nhau (1998). Tương tự, các quốc gia Đông Nam Á khác củng là các quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, các ngôn ngữ Đông Nam Á đều chỉ thuộc về một trong số 4 ngữ hệ sau đây: Nam Á, Nam Đảo, Thái, Hán – Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Đó là một sự thống nhất cao độ. Về chữ viết, từ đầu công nguyên, khi cần ghi chép các dân tộc Đông Nam Á đã vay mượn chữ Hán (như ở Việt Nam) và chữ Pali – Sanskrit (ở các nước khác) của Trung Hoa, Ấn Độ để xây dựng chử viết riêng cho dân tộc mình. Tuy nhiên, từ thế kỷ XIII , chử viết Ả Rập đã ảnh hưởng mạnh mẻ đến các quốc gia hải đảo như Malaysia, Indonesia. Từ thế kỷ XVI, với sự can thiệp của các quốc gia phương tây, chử viết của các quốc gia Đông Nam Á được chuyển đổi theo hướng Latinh hóa (chữ viết Brunay, Malaysia, Indonesia, Philippin và Việt Nam) được sử dụng ngày nay.

Về phong tục tập quán: Ở Đông Nam Á có đến hằng trăm dân tộc khác nhau, vì thế phong tục, tập quán rất đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song những tập tục ấy vẫn có nét gần gủi, tương đồng nhau, là mẩu số chung quy tụ, giao thoa trên nền tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á _ Một nền tảng văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cách ăn mặc với một bộ trang phục chung là Sàrông (váy), khố, vòng đeo tai, vòng đeo cổ,… Đó là tục ăn uống với các thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả (hiện nay, thịt ngày càng quan trọng trong cuộc sống hiện đại). Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình. Tục chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà khi còn sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả các trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền,… Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu vực Đông Nam Á.

Về lể hội: Củng giống như sự đa dạng của phong tục, tập quán. Có thể nói, ở mổi dân tộc mùa nào, tháng nào trong năm củng có lể hội. Nếu thống kê con số lể hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng trăm. Tất nhiên, trong sự đa dạng ấy, các lể hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập trung vào ba hình thức chính: Lễ hội nông nghiệp (Như lễ xuống đồng của người Việt, lễ mở đường cày đầu tiên của người Thái, lễ dựng chòi cày của người Chăm,…), lễ hội tôn giáo (như lễ hội chùa Keo, chùa Hương ở Việt Nam,…), lễ tết (như tết nguyên đán, tết phật,…).

Về tín ngưỡng bản địa: Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra và lớn lên trong một khu vực địa lí, văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẽ nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Các cư dân Đông Nam Á như ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanma, Indonesia,… thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,…), tín ngưỡng phồn thực (thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…), tín ngưỡng thờ cúng người đã mất (tục thờ cúng tổ tiên, ông bà). Cái chung đó xuất phát từ thuyết vạn vật hữu linh, tức thuyết mọi vật đều có hồn.

Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hóa Đông Nam Á, chúng ta đều có thể thấy một sự thống nhất trong muôn hình muôn vẽ sự tồn tại đa dạng của chúng ở các dân tộc Đông Nam Á.

Văn hóa Đông Nam Á ngày nay vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa truyền thống vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả phương Đông lẩn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ của Đông Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái “khung” Đông Nam Á, song củng có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mổi quốc gia, mổi dân tộc. Nói cách khác văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng.

Có thể khẳng định Đông Nam Á có có một bản sắc văn hóa riêng và ngày càng tiến bộ. Đông Nam Á hiện nay đang phát triển kinh tế, đất nước hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ. Mà văn hóa là động lực quan trọng nhất của của sự phát triển một nước, một khu vực. Với bề dày văn hóa mang bản sắc chung, đặc sắc, các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ tiến xa hơn nửa, đạt được nhiều thành tựu mới trong tương lai, Đông Nam Á sẽ trở thành một khu vực hòa bình, ổn định, một khu vực phát triển, thịnh vượng của thế giới.




TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn hóa Đông Nam Á – Mai Ngọc Chừ (1999).
2. Lược sử Đông Nam Á – Phan Ngọc Liên (2002).
3. Văn hóa Đông Nam Á – (khoa sư phạm – bộ môn lịch sử trường Đại học An Giang – 2010).
4. Cơ sơ văn hóa Việt Nam – Trần Ngọc Thêm (1999).
5. Dân tộc học đại cương – Ts. Nguyễn Thành Phương – trường Đại học An Giang.

Bàn thêm về nguồn gốc người Việt


Bàn thêm về nguồn gốc người Việt
(bài mang tính tham khảo)
Phải nói rằng, công trình nghiên cứu Ða dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome Diversity Project) của nhóm nhà khoa học Trung Quốc và Mỹ do giáo sư Y. Chu chủ trì, được công bố cuối năm 1998 đã làm đảo lộn nhận thức của giới khoa học về nguồn gốc của người Ðông Á.
Một số nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài đã mau chóng chuyển tải thông tin này. Hai bài viết của luật sư Cung Ðình Thanh và giáo sư Nguyễn Văn Tuấn sống tại Úc là những khảo cứu có giá trị. Tuy nhiên, nếu nhìn lại, cả hai bài viết đó, bên cạnh những ưu điễm rất lớn vẫn còn những lý giải chưa thuyết phục, dễ gây ngộ nhận.
Trong chuyên khảo "Nhờ tiến bộ của di truyền học (DNA), phải chăng đã đến lúc chúng ta có thể khẳng định được nguồn gốc dân tộc Việt Nam?" đăng trên tập san Tư Tưởng, sau đó được lưu giữ tại mạng Linhnam, tác giả Cung Ðình Thanh viết: "Câu hỏi cần được đặt ra là: Tại sao cũng từ Ðông Nam Á ra đi mà người ra hải đảo thì da sậm, tóc xoăn; trong khi người ngược phía Bắc lại thuộc da vàng, tóc đen? Cần phải có sự nghiên cứu về di truyền học và có thêm tài liệu khảo cổ để trả lời câu hỏi này cho xác đáng. Trong hoàn cảnh tài liệu hiện có, chỉ có thể giả thiết, người Phi châu đến Ðông Nam Á rồi tiện đường (lúc này nước biển thấp nên có nhiều cầu nối liền Ðông Nam Á đến hải đảo) ra hải đảo Thái Bình Dương trước. Trong khi trụ lại Ðông Nam Á, họ đã hội đủ các yếu tố khoa học để có được một cấu trúc di truyền lần hai, biến từ giống da đen sang giống da vàng trước khi họ tiến lên phia Bắc. Vậy phải chăng người Hắc chủng từ Phi Châu đến Ðông Nam Á rồi nhờ hội đủ yếu tố khoa học, đủ cơ duyên, đã biến đổi thành người da vàng mà sau này nhân chủng học gọi bằng tên Mongoloid. Từ đó họ đã tỏa lên phía Bắc vượt sang châu Mỹ tạo thành người Da Ðỏ."
Còn trong bài viết: Nguồn gốc người Việt theo di truyền học, đăng tên Tập san Tư Tưởng rồi được đưa lên mạng Linhnam, giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nghi ngờ phát hiện rất quan trọng của Ballinger(1): "Người Ðông Á là người Mông Cổ phía Nam." Ông cho rằng nghiên cứu này do thực hiện trên quá ít mẫu nên không đủ độ tin cậy. Và ông đề nghị phải có công trình nghiên cứu di truyền học lớn hơn để có kết luận thỏa đáng.
Chính sự "trục trặc" ở những người tiên phong trong việc giới thiệu quan điểm mới này ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và tâm lý của người đọc.
Chúng tôi, trong khả năng hạn chế của mình muốn thử bàn lại chuyện này.
VỀ BÀI VIẾT CỦA LUẬT SƯ CUNG ÐÌNH THANH
"Tại sao cũng từ Ðông Nam Á ra đi mà người ra hải đảo thì da sậm, tóc xoăn; trong khi người ngược phía Bắc lại thuộc da vàng, tóc đen?" Câu hỏi đặt ra là đúng, nhưng cho rằng: "Trong khi trụ lại Ðông Nam Á, họ đã hội đủ các yếu tố khoa học để có được một cấu trúc di truyền lần hai, biến từ giống da đen sang giống da vàng trước khi họ tiến lên phia Bắc." là lời giải khó thuyết phục. Lời giải như vậy, chỉ có giá trị như một suy đoán. Muốn cho suy đoán này chấp nhận được, cần phải rất nhiều chứng minh, ít nhất hai điều: 1, Thực sự đã xảy ra đột biến (mutation) đối với người tiền sử Ðông Nam Á và 2, Những nhân tố thực sự đã tạo ra đột biến đó? Cho đến nay khoa học chưa tìm ra bằng chứng về một đột biến di truyền như vậy đồng thời cũng không tìm được trong môi sinh Ðông Nam Á những yếu tố đặc biệt như phóng xạ, hóa chất có thể gây ra cuộc đột biến khoảng 50.000 năm trước. Nếu theo ý tác giả thì, để chứng minh được giả thiết trên, "cần phải có sự nghiên cứu về di truyền học và có thêm tài liệu khảo cổ để trả lời câu hỏi này cho xác đáng." Như vậy có nghĩa là còn cần phải bỏ ra rất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc mới có thể xác định được chắc chắn nguồn gốc người Việt! Thông tin như vậy dễ làm nản lòng người từng quá lâu chờ đợi. Thật may mà sự việc lại không như tác giả đoán định.
Sở dĩ vị luật sư đáng kính lấn cấn ở chỗ này vì những lẽ sau:
1- Khi khảo sát công trình của nhóm giáo sư Y Chu, Li Jin. ông đã bỏ qua chi tiết "Người tiền sử dừng lại ở đây trong khoảng 10.000 năm, họ lai giống với nhau. 50.000 năm trước, người từ Ðông Nam Á đến châu Úc." Như vậy, trong lộ trình thiên di, không phải người tiền sử đến Ðông Nam Á rồi chia tay nhau ngay: một bộ phận ở lại còn bộ phận khác thì tiếp tục hành trình sang châu Úc. Thực tế là, họ có sự dừng chân chung đụng lai giống trên lục địa Ðông Nam Á rồi 10.000 năm sau mới chia tay nhau! Kết quả là, ở thời điểm chia tay ấy, cấu trúc di truyền của phần lớn (HVT nhấn mạnh) dân cư Ðông Nam Á đã gần như hòa đồng và không còn giống với tổ tiên họ khi đặt chân tới đây. Người đi sang Úc cũng có bộ genes giống với người ở lại. Chính điều này giải thích sự gần gũi về di truyền giữa thổ dân châu Úc và người Ðông Nam Á hiện đại như phát hiện của nhóm giáo sư Y. Chu.
2- Thứ hai: Trong công trình của mình, các tác giả của Dự án đa dạng di truyền người Hán đã không đề cập vấn đề rất quan trọng: người tiền sử đến Ðông Nam Á gồm một hay nhiều chủng người? Chính vì không có thông tin này khiến cho những người khảo cứu dựa trên công trình của họ bị bối rối, đưa ra những lý giải thiếu thuyết phục. Thực ra vấn đề này từ lâu đã được nhân chủng học phát hiện. Bằng nghiên cứu hình thái học hàng loạt sọ cổ Ðông Nam Á, nhà nhân chủng học Nguyễn Ðình Khoa cho thấy: "Người tiền sử đến Ðông Nam Á gồm hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Trong quá trình chung sống đã có sự lai giống giữa họ thành hai chủng Indonesien, Melanesien cùng những chủng lai giữa chúng với nhau là Negritoid, Vedoid"(2).
Khi kết hợp giữa phát hiện mới của di truyền học với những kiến thức vốn có về nhân chủng học Ðông Nam Á như trên, vấn đề về thành phần nhân chủng của người tiền sử Ðông Nam Á trở nên rõ ràng:
Ðặt chân tới Ðông Nam Á, hai đại chủng tiền sử Australoid và Mongoloid lai nhau tạo ra các chủng Indoneisen và Melanesien, Vedoid, Negritoid. Tài liệu từ thống kê sọ cổ cũng như di truyền học cho thấy ưu thế vượt trội tới mức lấn át của yếu tố Australoid trong thành phần dân cư Ðông Nam Á. Sau 10.000 năm là thời gian đủ cho họ tăng về số lượng, tràn khắp Ðông Nam Á lục địa. Do sự tăng nhân số mà nhu cầu di cư nảy sinh. Từ đây họ tỏa ra châu Úc, Newguinea cùng các hải đảo Ðông Nam Á.
Khoảng 40.000 năm trước, nhờ băng hà tan, thời tiết ấm lên, người Ðông Nam Á đi lên khai phá lục địa Trung Hoa rồi tiếp đó vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ. Suốt trong thời gian này không hề có bất kỳ đột biến (mutation) nào mà chỉ có hòa huyết tự nhiên giữa những thành phần người có mặt ở Ðông Nam Á. Hoàn toàn không hề có chuyện người da sậm tóc xoăn đột biến chuyển hóa thành người tóc đen da vàng như ông Cung Ðình Thanh giả định.
Có thể khẳng định: suốt thời gian này, thành phần chủ yếu, đa số tuyệt đối trong dân cư Ðông Á, châu Úc là Australoid với những chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid.
Vậy người Mongoloid đi đâu? Vì sao sau này lại chiếm đa số trong dân cư Ðông Á? Tôi xin trình bày ở phần sau
VỀ BÀI VIẾT CỦA G.S NGUYỄN VĂN TUẤN
Trong bài viết của mình, G.s Nguyễn Văn Tuấn trình bày sáng rõ và thuyết phục nguồn gốc người Việt theo những phát hiện mới nhất về di truyền học. Tuy vậy, tác giả hình như không thỏa đáng khi phản bác ý kiến của Ballinger cho rằng người Ðông Nam Á có nguồn gốc Mông Cổ phương Nam (were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians). Phát hiện của Ballinger là rất quan trọng, nó như cái chìa khóa giải quyết vấn đề nhân chủng học Ðông Nam Á. Bác bỏ ý kiến của Ballinger cũng có nghĩa chặn đứt con đường tìm ra lời giải về nhân chủng Ðông Nam Á. Tuy nhiên, theo ý chúng tôi thì Ballinger hoàn toàn chính xác: đúng là người Ðông Nam Á có nguồn gốc Mông Cổ phương nam.
Chúng tôi cho rằng, trong điều kiện tự nhiên và xã hội lúc đó, người tiền sử tới Ðông Nam Á một cách riêng biệt theo từng nhóm chủng tộc khác nhau, trong hành trình dài dằng dặc. Chỉ khi tụ lại trên đồng bằng Sundaland, Nanhailand và miền Trung miền Bắc Việt Nam, hai đại chủng người tiền sử mới có sự chung đụng và lai giống (cố nhiên, không loại trừ sự lai giống ngẫu nhiên trên đường đi). Kết quả là hình thành một cộng đồng lai chiếm tuyệt đại đa số cư dân. Ðấy là bức tranh chung. Nhưng đó không phải là tất cả mà bên cạnh còn những ngoại lệ: Có thể một số nhóm Mongoloid hay Australoid suốt trên đường thiên di không hề có sự gặp gỡ nào với chủng người khác. Tới Ðông Nam Á, họ cứ sống biệt lập như vậy. Một vài nhóm Mongoloid vượt lên tây bắc Ðông Nam Á sau đó theo đường Ba Thục lên định cư ở vùng tây bắc Trung Quốc. Ở đây họ sống cách biệt với phần còn lại của nhân loại và hình thành chủng Mongoloid phương Bắc. Suốt trong nhiều ngàn năm, họ từ săn bắt rồi chuyển sang phương thức du mục trên thảo nguyên Thiểm Tây, Cam Túc và nước Mông Cổ.
Cuộc thiên di của những nhóm người biệt lập như trên được nhiều học giả xác nhận.
Gs. Ranjan Deka Ðại học Cincinnati Hoa Kỳ, một trong những người tham gia Dự án Ða dạng di truyền người Hán công bố: "Những quần thể từ Ðông Á tới luôn luôn bắt nguồn từ một dòng riêng rẽ, điều này tạo nên nguồn gốc riêng biệt của những quần thể đó"(3). Sự kiện này cũng tìm được dẫn chứng trong khảo cổ học: "Ðiều khó khăn nhất là rất ít sọ người được tìm ra ở đấy, dù có di chỉ đồ đá ở Mông Cổ (văn hóa Hetao) và ở bắc Trung Hoa vào hậu kỳ đá cũ. Ngoài ba sọ thuộc lớp khảo cổ trên ở trong hang Zhoukoudian xem như thuộc chủng tiền (proto) Mongoloid, người ta chỉ tìm được sọ Liujiang (Quảng Tây). Sọ này có tuổi định khá trẻ (10.000 năm trước), nhưng di vật trong Bailiandong (Bạch Liên động) gần đó lại có tuổi 30.000 năm trước(4). Dù rất hiếm hoi nhưng những dấu vết trên cho thấy: người Mongoloid từ Ðông Nam Á theo hành lang phía tây lên tây bắc Trung Quốc. Việc nghèo nàn di vật cũng nói lên một điều: nhóm người này tuy đi làm nhiều đợt nhưng vì số lượng không nhiều nên chỉ tạo được quần thể thiểu số Mongoloid phương Bắc.
Luật sư Cung Ðình Thanh cho rằng: "Người ở lại Ðông Nam Á có sự chuyển hóa di truyền thành da vàng, đi lên trung Quốc rồi sang châu Mỹ." Ý kiến này là sự phỏng đoán không có cơ sở. Các tư liệu khảo cổ cũng như di truyền học xác nhận: cho đến thiên niên kỷ thứ III TCN, dân cư trên toàn vùng Ðông Á tuyệt đại đa số thuộc về Australoid. Chính những người Indonesien, Melanesien này đã vượt eo Bering sang châu Mỹ.
Quá trình Mongoloid hóa chỉ xảy ra vào thiên niên kỷ thứ III TCN khi người Hán Mông Cổ vượt Hoàng Hà xuống chiếm đất của người Bách Việt. Chính người da vàng từ Tây Bắc xuống đã lai với người da sậm màu tại chỗ tạo thành chủng Mongoloid phương nam. Ðó là quá trình lai tạo chuyển hóa lâu dài mà dấu vết còn đậm ở đời nhà Thương và sau nữa: "Thang, ông vua đầu tiên của Trung Hoa được mô tả là có nước da đen bóng. Triết gia nổi tiếng Lão tử cũng có màu da đen”(5).
Khoảng 2800 năm TCN, khi thấy những người da ngăm đen, tóc xoăn trồng lúa nước phía Nam sông Hoàng Hà có cuộc sống sung túc, ý thức thực dân trong đầu những người Hán Mông Cổ nổi lên. Họ kiên trì cuộc lấn chiếm với vó ngựa và cung nỏ, dáo mác. Khoảng 2600 năm TCN, bằng chiến dịch lớn Trác Lộc trên sông Hoàng Hà, người Hán Mông Cổ toàn thắng, tràn xuống vùng đất vừa chiếm được. Cuộc gặp gỡ này phải chăng là định mệnh đã tạo ra một chủng người mới trên địa bàn Ðông Á: chủng Mongoloid phương Nam. Phải chăng cũng là định mệnh việc một nhóm người sống tách biệt với bầy đoàn ở tận vùng Tây Bắc xa vời đã giữ gìn vốn genes Mongoloid để khi gặp những người Indonesien, Melanesien, vedoid từ phương Nam đi lên thì xảy ra phản ứng dây chuyền của cuộc hòa huyết vĩ đại tạo nên tuyệt đại dân số Ðông Á hôm nay? Lịch sử chứng kiến một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục: trên toàn địa bàn Ðông Á có một quá trình Mongoloid hóa mạnh mẽ. Thành phần Australoid đang là chủ thể suốt 50.000 năm thì trong ba thiên niên kỷ cuối cùng gần như biến mất khỏi địa bàn Ðông Á, nhường chỗ cho thành phần Mongoloid!
Giáo sư Nguyễn Ðình Khoa của Ðại học Tổng hợp Hà Nội trình bày trong sách Nhân chủng học Ðông Nam Á: "Thời đại Ðá Mới, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó có Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu... Sang thời Ðồng-sắt, người Mongoloid đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân Việt Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư hoặc do đồng hóa."(Nguyễn Ðình Khoa, Sđd). Ðó cũng chính là bức tranh toàn cảnh dân cư Ðông Nam Á hiện đại.
Như vậy là, một cách nông cạn, chúng tôi tưởng đã hóa giải những điều còn ngờ vực, những điều còn chưa rõ ràng trong hai công trình khảo cứu của những tác giả đi trước. Vấn đề về nguồn gốc người Việt nói riêng và người Ðông Á nói chung đã được xác định.

NGƯỜI CỔ ĐÔNG NAM Á


NGƯỜI CỔ ĐÔNG NAM Á
Nguyễn Đức Hiệp

Đông Nam Á là nơi cư trú lâu đời của con người từ khi con người hiện đại đi từ Đông Phi qua Ấn Độ đến Đông Nam Á hơn 60000 năm nay. Từ Đông Nam Á, con người đã đi đến Úc châu, và sau đó đã đi lên Đông Á. Người cổ nhất được tìm thấy ở Úc, ở hồ Mungo (nay là sa mạc), được định tuổi là khoãng 50000 năm. Hiện nay chưa tìm được di tích người cổ hơn người Mungo ở Đông Nam Á, nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy Đông Nam Á là điểm xuất phát của con người đi xuống lục địa Úc trong thời băng hà Pleistocene. Để có thể hiểu rõ quá trình phát triển của con người, chúng ta hảy đi ngược lại thời gian tìm hiểu về địa chất, môi trường sống trong vùng Đông Nam Á từ cuối thời băng hà Pleistocene cho đến ngày nay.
1. Đông Nam Á, thời băng hà - Đất tổ của người AustroAsiatic, Austronesian
Thời kỳ địa chất Cenozoic, cách đây 65 triệu năm cho đến ngày nay, là thời kỳ động vật có vú và chim bắt đầu xuất hiện. Thời địa chất Cenozoic gồm có hai kỷ - kỷ thứ ba (Tertiary) và kỷ thứ tư (Quaternary) — Trong 2 kỷ này gồm có 7 kỷ nguyên (epochs). Kỷ thứ ba có 5 kỷ nguyên Paleocene, Eocene, Oligocene, Miocene, và Pliocene và Kỷ thứ tư chỉ gồm hai kỷ nguyên, thời kỳ Pleistocene và Holocene.
Con người bắt đầu xuất hiện vào thời kỷ nguyên Pleistocene, nhưng chỉ bắt đầu có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống trên trái đất vào đầu thời Holocene cách đây gần 12000 năm.
Kỷ thứ ba (Tertiary) Paleocene : 65-57 triệu năm trước
Eocene     : 57-34 triệu năm trước
Oligocene : 34-23 triệu năm trước
Miocene   : 23-5 triệu năm trước
Pliocene   : 5-2 triệu năm trước
Kỷ thứ tư   (Quarternary) Pleistocene : từ 2 triệu năm đến 13,000 năm trước đây
Holocene : 12,000 năm trước đây đến ngày nay
Tiến bộ then chốt nhất về khoa học trái đất là sự khám phá trong thập niên 1990 khí hậu địa cầu trong quá khứ 100000 năm đã qua: từ thời băng hà cuối của kỷ nguyên Pleistocene đến thời Holocene ngày nay. Dữ kiện khoa học về thời tiết và nhiệt độ nước biển đã được biết qua các nghiên cứu các lớp san hô, những mẫu phù sa, các tầng nước đá ở Bắc cực trước đây trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhưng chỉ hơn 15 năm gần đây, qua sự tổng hợp và các hợp tác nghiên cứu liên ngành để giải thích các sự kiện lịch sử con người trong quá khứ cũng như tiên đóan khí hậu môi trường sống trên trái dất trong tương lai, các nhà khoa học đã cấu tạo lại các dữ kiện khí hậu xưa kia trên trái đất rất chi tiết cho đến các đây hơn 100,000 năm để làm nền tảng cho các nghiên cứu sau này.
Quan trọng nhất là qua các lớp nước đá lấy ở đảo Greenland gần bắc cực từ trên mặt băng xuống sâu đến tận đất, các nhà khoa học dùng tỉ lệ đồng vị oxygen 18 và oxygen 16 để kiến tạo lại nhiệt độ trong khoảng 120000 năm cách đây, cho thấy thời kỳ Holocene, khi thời kỳ băng hà cách đây 12000 năm chấm dứt, là thời kỳ mà sự thay đổi khí hậu nhiệt độ ít biến động và thay đổi với mực độ không to lớn so với thời băng hà ở kỷ nguyên Pleistocene. Thời kỳ băng hà này có nhiều sự thay đổi lớn lao đột ngột qua giai đoạn ấm rồi trở lai lạnh (xem Hình 2c). Những biến động từ lạnh đến ấm trong thời băng hà được gọi là biến động Dansgaard-Oeschger, và ngược lại từ ấm đến lạnh là biến động Heinrich.
Trong giai đọan chuyển tiếp từ thời băng hà đến Holocene lúc nhiệt độ tăng và ấm trong một thời gian thì thình lình cách đây 12000 năm, nhiệt độ giảm mạnh thay đổi khí hậu trở lại lạnh như trong thời băng hà. Thời kỳ này các nhà khoa học khí hậu gọi là Young Dryas. Đây cũng là lúc con người phải sống dựa vào thực vật, bước ra khỏi thời đá cũ và kỷ thuật canh nông trồng trọt ra đời. Thời Young Dryas rất ngắn, sau đó khí hậu trở lại ấm và đi vào kỷ nguyên Holocene ngày nay. Vào thời Holocene, cách đây khoảng 8200 năm (6200BC), hơn 3000 năm sau Young Dryas, nhiệt độ bổng nhiên tụt xuống lạnh trong vòng 60 năm, làm vùng Mesopotamia (gần Iraq ngày nay) bị hạn hán, tàn phá canh nông. Đa số con người phải bỏ đi, xuôi theo sông Tigris và Euphrate xuống hạ lưu gần vịnh Ba Tư và từ đó canh nông dẫn nước ra đời. Và sau cùng cách đây 4200 năm (2200BC), sự thay đổi khí hậu đột ngột đã làm vùng Sahara xanh tươi, ẩm và ấm trở thành sa mạc và nền văn minh Harappa, ở lưu vực sông Ấn Hà (Indus), cũng như nhiều đế quốc và triều đại ở Cận đông và Ai Cập biến mất.
(a) Địa lý - Động vật và thảo vật
Cả vùng biển hiện nay từ nam mũi Cà mau, vịnh Thái Lan đến các eo biển giữa các đảo Sumatra, Borneo, Java đều rất nông cạn và được gọi là thềm Sunda (Sunda shelf). Trong thời kỳ băng hà Pleistocene từ cách đây 20000 đến 18000 năm, thềm Sunda còn ở trên mặt nước biển. Lúc nước biển còn thấp (từ 100m đến 150m dưới mực nước hiện nay) thì phần lớn thềm lục địa ở biển Đông và cả vùng vịnh Thái Lan, nam Việt Nam nối dài với bán đảo Mã Lai vẫn còn là đất liền trên mực nước biển hiện nay và các đảo lớn ở Nam Dương, như Sumatra, Java, Borneo, Bali .. còn gắn liền với lục địa Á châu. Hình 1 chụp từ vệ tinh cho thấy rõ thềm Sunda nối với các đảo tạo thành Sundaland gắn liền với lục địa Á châu.Vết tích của thời kỳ này còn có thể tìm thấy được qua nghiên cứu về sự phân phối các động vật trên các vùng ở Đông Nam Á.
Tê giác 1 sừng, Rhinoceros sondaicus, trước đây không lâu (đầu thế kỷ 20) còn sống ở vùng rộng lớn trãi dài từ Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, Cam Bốt, bán đảo Mã Lai, Sumatra và Java. Ngày nay, do sức ép và sự bành trướng của con người ảnh hưởng đến môi trường sống, chúng chỉ còn ở Java và một ít ở Việt Nam thuộc khu vực rừng quốc gia Nam Cát Tiên, Lâm Đồng. Cũng vậy, tê giác 2 sừng loại Sumatran rhino (Dicerorhinus sumatrensis) hiện hữu trong môi trường sống từ Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, đến đảo Sumatra và Borneo.
Loài Orang Utan (“người rừng”), hiện nay vẫn còn ở rừng nhiệt đới nóng ẩm Sumatra và Borneo, cho ta thấy là khi xưa lúc Borneo còn gắn liền với Sumatra và lục địa Á châu, chúng đã đi lại qua các vùng nhiệt đới xích đạo ở hai nơi (1). Lạ hơn là giống Orang Utan ở Tây Nam Borneo và Sumatra rất gần gụi giống nhau hơn là giữa Orang Utan phía Tây Nam Borneo và các nơi khác trên cùng đảo Borneo. Thêm một sự kiện nữa là các giống cá ở sông Kapuas, phía tây Borneo hầu như giống y như các loài cá ở các sông phía đông đảo Sumatra mà lại rất khác với các giống cá ở sông Mahakam phía đông Borneo cách sông Kapuas qua một rặng núi mà thôi. Điều này cho thấy xưa kia sông Kapuas và các sông ở phía đông Sumatra có cùng chung một lưu vực (catchment) nối liền hai đảo Sumatra và Borneo hiện nay.
Cũng vậy loài voi hiện diện ở khắp vùng Nam lục địa Á châu từ Sri Lanka, Ấn độ, Miến Điện, Thái Lan, Nam Trung Quốc (Vân Nam), Đông Dương, Mã Lai đến các đảo hiện nay Sumatra, và Borneo. Loại voi, Elephas maximus sumatranus, ở đảo Sumatra và Borneo giống như loài Elephas maximus maximus ở Sri Lanka và Elephas maximus indicus ở Ấn độ và các nơi khác.
Các dữ kiện trên cho thấy Sundaland trước thời biển tiến là vùng đất lớn nối các đảo Đông Nam Á với lục địa Á châu cho phép các loại động vật đi lại phát tán trên vùng này. Con người cũng đã đi đến lục địa Úc châu từ Đông Nam Á và Sundaland qua các eo biển hẹp ngăn cách Úc với Sundaland. Con người đã đến Úc cách đây hơn 50000 năm, sớm nhất từ Phi Châu, trước khi có đợt hai từ Trung Đông đến Âu châu.
Vào thế kỷ 19, nhà sinh học Wallace đã quan sát, nghiên cứu các động vật ở các đảo Indonesia. Ông tìm thấy có 48 loài động vật giống nhau ở bán đảo Mã Lai, đảo Sumatra, Borneo và Java. Trong số này có 7 loài vượn khỉ là những động vật sống trong rừng, không bao giờ lội và chắc chắn không thể vượt qua được 1 dặm nào ở biển; 19 loài thú săn, một vài trong số này có thể lội nước vượt biển, nhưng chúng ta không thể nói rằng có nhiều loài trên vượt qua được các eo biển rộng từ 30 đến 50 dặm cách xa hai bờ (trừ 1 eo hẹp hơn 30 dặm), và 5 loài thú có sừng, ngà, gồm loài heo vòi (tapir), 2 loài tê giác và 1 loài voi (đã đề cập như trên).
Ngoài ra còn có 13 loài chuột, 4 loại ăn bọ, gồm có chuột chù (shrew-mouse) và 6 loại sóc mà sự vuợt biển qua hơn 20 dặm còn khó cho ta có thể tưởng tượng hơn là các loài thú lớn hơn. Điều trên cho thấy là trước đây đã có thời kỳ các đảo này nối chung với lục địa Á châu.
Trái lại đảo Celebes và các đảo xa hơn băng qua đường gọi là “đường Wallace” (Wallace line) chạy qua giữa biển của hai đảo Borneo và Celebes đã không nối với lục địa Á châu trong thời băng hà đã qua trước đây. Vì độ sâu ở biển giữa đảo Celebes (Sulawesi) và Borneo rất sâu, nên ngay cả khi mực nước biển thấp hơn hiện nay hơn 100m, eo biển vẫn còn là biển chia cách hai đảo. Đảo Celebes từ 160 triệu năm tách rời từ lục địa cổ Gondwana (cũng như Madagascar tách rời Phi Châu trong khoảng thời gian này). Vì thế Celebes biệt lập từ lâu đời và nơi đây có nhiều loài thú đặc biệt khác với Á châu và không nơi nào khác chung quanh vùng có như loài khỉ Tarsier spectrum (giống con lemur ở Madagascar), một loại khỉ nhỏ khoảng 10cm và đuôi dài 20cm, và một loài thú lạ kỳ giống loài heo mà ta thường biết gọi là Babirusa.
Cả hai tương tự như các loài sống ở Phi châu hơn là Á châu. Heo Babirusa đặc biệt có răng nanh hàm trên cong vòng gần đến mắt, giống như ngà voi. Hình dáng bên ngoài giống như hà mã. Thật ra loài liên hệ gần giống với heo Babirusa là loài tổ tiên của hà mã sống cách đây 30 triệu năm được tìm thấy trong các hóa thạch ở bắc bán cầu. Hoá thạch của con hà mã sơ khai (Merycopotamus) đã được tìm thấy ở Siwalik, Ấn độ. Đây có thể là tổ tiên của loài heo Babirusa hiện nay. Sống biệt lập hàng triệu năm, heo Babirusa đã tiến hóa ở đảo Celebe đến một dạng không giống loài heo nào trên thế giới.
Ở đảo Celebes, nếu không tính các loài dơi, thì các loài thú vật có vú hoàn toàn 100% chỉ nơi đây mới có (endemic), hơn cả Úc châu. Úc châu, một lục địa đảo đặc biệt, cũng chưa có tỷ lệ số lượng như vậy. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt của đảo Celebes, thì nói chung đường Wallace chạy dài ngăn chia từ giữa đảo Bali và Lombok lên giữa Borneo và Celebes và là ranh giới động thực vật giữa Á châu và Úc. Phía bên trái là các đảo Bali, Java, Borneo, Sumatra. Phía bên phải là các đảo Celebes, Flores, Timor, Lombok, Sumba và các đảo trong quần đảo Moluku gần New Guinea và Úc. Cũng như đảo Celebes, trên đảo Flores có nhiều đông thực vật khác với các đảo bên trái đường Wallace: có loài voi nhỏ Stegodon sondaari lớn bằng con trâu nước đã tuyệt chủng, và vào năm 2004 đã tìm thấy hài cốt của người xưa bé lùn (homo floresiensis) mà giới khoa học nhân chủng và khảo cổ đã nghiên cứu tranh luận xôn xao gần đây.
(c) Con người
Trước khi biển tiến cách đây 14,000 năm thì thềm Sunda vẫn còn trên mực nuớc biển, nối liền lục địa Á châu với các đảo Sumatra, Borneo, Java. tạo thành Sundaland cho phép người cổ Đông Nam Á phân tán và đi qua các “cầu đất liền” trên vùng rộng lớn này.
Thời đá cổ (Paleolithic) và đá mới
Tiến bộ của khoa học di truyền gần đây cho thấy con người hiện đại đã khởi xuất từ Đông Phi qua nhiều đợt di cư đã đến Á châu, Trung Đông và phát tán đi đến các nơi khác. Đợt di cư đầu tiên trong thời kỳ đầu băng hà là dọc đường biển nam Arabia, Nam Ấn Độ (ghé các đảo Andaman, Nicobar hiện nay ở Ấn Độ Dương gần Miến Điện) đến Đông Nam Á và đến Úc châu. Người thổ dân Úc châu hiện nay là các giống dân lâu đời, cũng như người Dravidian (Nam Ấn), người Melanesian ở Guinea, người Orang Asli trong rừng ở bán đảo Mã Lai và các giống bộ lạc còn sót lại trong rừng rậm ở các đảo Andaman như các bộ lạc người Jarawa, Onge. Nghiên cứu di truyền về các tộc trên cho thấy họ là những giống người cổ ở Á châu vẫn còn sống trong rừng khi người thời đá mới với kỷ thuật canh nông xuất hiện sau này (10). Ngôn ngữ của họ thuộc loại ngôn ngữ cổ Indo-Pacific.
Người thổ dân Andaman lùn đen, giống người pygmie ở Phi châu và các thổ dân negritos Orang Asli như Semang, Aeta, Boloven ở rừng rậm Mã Lai và Phi Luật Tân. Hiện nay còn rất ít chỉ dưới 500 người, họ là hậu duệ của người cổ thời đá cũ. Nghiên cứu di truyền học gần đây cho thấy sự liên hệ của họ với các giống thổ dân ở Úc châu hiện nay. Về hình dáng bên ngoài, khó có thể phân biệt và ta thấy sự giống nhau rất nhiều giữa người Semang với người thổ dân Úc hiện nay.
Một bộ xương hầu như còn nguyên vẹn đã được tìm thấy tại một di chỉ gọi là Gua Gunung Runtuh ở Mã Lai vào đầu thời kỳ Holocene. Phân tích bộ xương này cho thấy xương rất giống thổ dân Úc ngày nay ở hình thái răng và chân tay (3), và giống những mẫu sọ người ở thời kỳ Mesolithic (đá trung kỳ) ở Mã Lai và đảo Flores. Sự khám phá này, cùng với các xương tìm thấy ở Tabon và Niah, cho thấy những người cổ ở Sundaland trong thời Pleistocene muộn có thể là tổ tiên của người thổ dân Úc hiện nay. Các đặc tính qua đo lường ở răng và xương chân ở người cổ Sundaland cho thấy các đặc tính này vẫn còn thấy ở các dân cư trong vùng Đông Nam Á cho đến đầu thời kỳ Holocene. Tuy vậy các khác nhau ở đặc tính về sọ đã được tích tụ từ cuối thời kỳ Pleistocene ở thổ dân Úc và các dân cư đầu tiên vùng Đông Nam Á so với các sọ cổ Sundaland.
Cách đây từ khoãng 20000 đến 10000 năm, những giống dân cư này bắt đầu toã ra đi đến cư ngụ ở vùng thượng du phía bắc và nam Đông Nam Á. Từ đó trong những môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật lần lần một cách có hệ thống. Sự kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm trong rừng, và sự vun xới các cây như cây đậu, đã cho phép họ thiết lập được đời sống vĩnh viễn, không đi đâu xa, ở các hang, chủ yếu là gần nguồn nước; đây là cách sống lần lần được các nhóm khác, sống trãi rộng trong khắp vùng, tiếp thu và thâu nhận.
Văn hóa của những nhóm người này được gọi là văn hóa Hòa Bình, do sự khám phá các di chỉ có cùng đặc tính chung vào đầu thế kỷ 20 đầu tiên ở tỉnh Hòa Bình, Việt Nam. Sau này các di chỉ tương tự được khám phá ở nhiều nơi khác trong vùng Đông Nam Á. Các đặc tính chung mà ta có thể thấy được về kỹ thuật, tập quán và đời sống hàng ngày trước đây và cho đến tận ngày nay của nhiều sắc dân ở Đông Nam Á.
Năm 1933 là năm mà bà M. Colani, nhà thực vật học và khảo cổ Pháp, đã khám phá ở các hang đá vôi và hầm ở tỉnh Hòa Bình là các nơi trú ngụ của người xưa với các dụng cụ đá sỏi dẻo thô sơ. Bài báo cáo khoa học của Colani trên tạp chí của trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp đã đưa ra ánh sáng đầu tiên của văn hóa cổ gọi là “Hòa Bình”.
Hang Con Moong, một di tích khảo cổ phát hiện vào năm 1977, trong vườn quốc gia Cúc Phương, cho thấy người Hòa Bình đã cư ngụ lâu đời trong hang với nhiều dụng cụ đá đẻo và các xương động vật như sóc, khỉ, chó, heo, tê giác, bò (rừng), hưu và các võ sò, trai, ốc. Người Hòa Bình là ai?. Trong hang Con Moong còn tìm thấy nhiều hài cốt, đa số xương đã mũn nát, nhưng còn một bộ với răng sọ, cho thấy chủng tộc là Australoid negrito (6).
Tại đây đã phát hiện các tầng văn hóa (5) chia ra như sau: tầng trên là văn hóa Hòa Bình III, tiếp nối với văn hóa Bắc Sơn, có rìu mài lưỡi và gốm, tầng kế dưới là văn hóa Hòa Binh II cổ điển mà Colani đã phát hiện và mô tả và tầng cuối cùng là văn hóa Hoà Bình I với công cụ đá đẻo rất thô sơ có nhiều đặc trưng của nền văn hóa Sơn Vi. Vì thế nhà khảo cổ Phạm Huy Thông đã cho rằng văn hóa Hòa Bình nảy sinh từ nền văn hóa củ hơn, nền văn hóa Sơn Vi.
Tổng hợp các dữ kiện trên có thể cho ta kết luận là người Andaman, Orang Asli (negritos) ở Mã Lai, Phi Luật Tân và thổ dân Úc là hậu duệ không thay đổi nhiều qua thời gian của những người cổ ở Sundaland và chủ nhân của văn hóa Hòa Bình là cư dân về hình thái giống như hay có liên hệ rất gần với các giống dân trên. Nghiên cứu mới nhất (2006) về di truyền mtDNA cho thấy thổ dân Úc có liên hệ sâu đậm với các dân tộc bản sứ ở Papua New Guinea, Malaya, và các đảo Andaman and Nicobar (12).
Cách đây khoảng 14000 năm, mực nuớc biển tăng lên ở cuối thời kỳ băng hà đã cắt đứt các “cầu” đất liền nối các đảo ở phía nam Đông Nam Á với lục địa Á châu. Và qua đó đã làm tăng nhanh quá trình phân hóa và cách ly giữa các văn hoá bản sứ trong vùng đã bắt đầu phát triển, nhất là ngôn ngữ. Tuy vậy sự kiện xảy ra sau đó không phải là một thời kỳ của sự cách ly xa dần của các nhóm mà là sự phát triển cùng thời của các văn hóa bản sứ này dựa trên một nền tảng chung có cốt rễ là văn hóa Hòa Bình thích ứng với điều kiện riêng ở mỗi địa phương, cộng với sự truyền đạt ý tưởng và kỹ thuật đã cho phép các phát minh tỏa ra trong một vùng địa hình thiên nhiên.
Trong thời kỳ mà nhà khảo cổ Wilhem Soldheim gọi là “thời kỳ phát tỏa” cách đây từ khoảng 10000 đến 2000 năm, đã xảy ra ở Đông Nam Á sự phát triển của hầu như tất cả nhu liệu mà ta có thể gắn liền với từ ngữ “văn minh”, không có liên hệ hay du nhập các sáng chế từ bên ngoài vào. Trong thời kỳ này, heo bò và gà vịt đã được thuần hóa và lúa đã bắt đầu được trồng. Ở các vùng gần biển, hay dọc theo các sông rạch, nghề hàng hải bắt đầu từ sự sáng chế ra thuyền có mái chèo. Và người Đông Nam Á đã vượt biển đi xa đến tận Nhật, Melanesia, Ấn Độ, và đảo Madagascar ở bờ biển phía đông Phi Châu.
Kỹ thuật văn hóa Hòa Bình hiện diện ở nhiều nơi ở Đông Nam Á lục địa, ngoài hang ở Hòa Bình, Con Moong còn có thể thấy ở các hang Pha Chang, Moh-Kiew, Lang Rongrien và Lang Kannam ở Thái Lan. Trong hội nghi kỷ niệm 60 năm Colani khám phá di chỉ và văn hóa Hòa Bình năm 1993 ở Hà Nội, các học giả Trung Quốc cũng trình bày những địa điểm khảo cổ ở Nam Trung Quốc có dấu vết của văn hóa Hòa Bình.
Người Hòa Bình đã đến xuống đồng bằng Bắc Việt định cư dọc sông ngòi và bờ biển. Trong khoảng 20000 năm, ho đã tiến hóa song song và có liên hệ với các dân cư khác ở Đông Nam Á hải đảọ Trước khi biển tiến thì Đông Nam Á hải đảo vần còn nối liền với lục địa, miền nam Việt Nam hiện nay và Cam Bốt còn nối với Borneo cũng như vịnh Thai Lan còn là đồng bằng mênh mông.
Biển tiến bắc đầu cách đây 15000 năm mà cao điểm là 14,500 chỉ trong vòng một thời gian ngắn khoảng 300 năm, mực nước biển lên nhanh khoảng 20m đến mực độ cao cách độ cao hiện nay khoảng 80m gần như nhận chìm thềm Sunda (pulse 1A) (7). Thềm Sunda bị chìm hoàn toàn cách đây khoảng 8000 năm.
Lúc bắt đầu thời kỳ biển tiến, người Đông Nam Á dọc bờ biển và sông đã tiến hóa qua môi trường khác với người cổ vẫn còn trong rừng rậm sống hái lượm. người ở đồng bằng vịnh Bắc bộ, Trung Việt, Borneo (như người Dayak), bán đảo Mã Lai, Sumatra, Java đã có sự liên hệ về nhân chủng và văn hóa. Cách đây khoảng 12000 năm vẫn trong thời kỳ biển tiến, thời tiết trên thế giới thình lình trở lại lạnh, khô kéo dài 1300 năm trước khi trở lại ấm bình thường.
Hiện tượng khí hậu này gọi là Young Dryas (tên của một loài cây thuộc họ hồng, hoa trắng sống trong môi trường núi rất lạnh khô cằn, đã để lại dấu vết trong các lớp địa chất) đã làm cuộc sống xã hội loài người thay đổi hoàn toàn, buộc một số phải đi xa sinh sống và còn lại sinh sống bằng canh nông, thuần hóa thú vật. Đây cũng là thời kỳ canh nông và thuần hóa súc vật xuất hiện đầu tiên ở xã hội người vùng Cận Đông. Hiện nay chúng ta chưa biết được cuộc sống của người Hòa Bình đã thay đổi như thế nào trong thời kỳ Young Dryas.
Trong một nghiên cứu di truyền mới nhất (9) về sự liên hệ của người cổ thổ dân negrito ở bán đảo Mã Lai với các giống dân hiện nay ở Đông Nam Á và Đông Á. Qua phân tích mitochondria DNA (mtDNA) từ mẫu tóc của người negrito ở Mã Lai trong bộ sưu tập Duckworth Collection và các nhóm người khác cho thấy lúc đầu họ chỉ trong phạm vi tây nam Trung quốc, bán đảo Đông Nam Á và Indonesia nhưng sau đó họ đã phát tán nhanh chóng khắp Đông Nam Á vào giữa cuối thời băng hà và thời Holocene đá mới cách đây 13000 năm.
2. Đông Nam Á sau biển tiến
Sau biển tiến một thời gian khoảng 10000 năm, Đông Nam Á bắt đầu vào thời đại đồng cách đây gần 2500 năm, gọi là thời kỳ Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ Hùng Vương dựng nước trong lịch sử Việt Nam.
Thời kỳ Đông Sơn là thời kỳ mà dân tộc Lạc Việt và các nhóm Bách Việt khác ở nam sông Dương Tử đã đạt đến trình độ văn minh cao mà trống đồng là những di vật tiêu biểu. Người Đông Sơn là ai ?
So với di chỉ Hòa Bình thì di chỉ Đông Sơn tìm được rất nhiều, tập trung nhiều nhất ở Bắc Việt Nam nhưng có mặt rãi rác khắp Việt Nam, Đông Nam Á, Nam Trung quốc.Nhiều xưong sọ và hài cốt đã được tìm thấy còn nguyên vẹn chưa bị mũn nát, nhất là trong các thuyền mộ táng.Trong bài tổng hợp nghiên cứu các xương sọ (11), người Đông Sơn là chuyển tiếp hổn hợp của chủng Australoid đen và chủng nam Mongoloid, trong quá trình giảm đen. Đặc biệt trong các xương tìm được, có các xương sọ thuần Australoid nhưng không có sọ nào là thuần chủng nam Mogoloid.
Năm 2002, ở làng Đông Xa, tỉnh Hưng Yên, một di chỉ khảo cổ đã được khai quật bởi các nhà khảo cổ Úc (P. Bellwood và J. Cameron, Đại học quốc gia Úc) và Việt Nam (Nguyễn Văn Việt từ Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á). Ở di chỉ này, đã tìm được các mộ chứa hài cốt và di vật chôn theo của người xưa. Đặc biệt là mộ thuyền dùng để chôn người xưa, trong mộ có gốm thừng, và vài đồng tiền thời Hán làm khoảng từ năm 118 đến năm 220 trước công nguyên (13). Một chi tiết khác là kỷ thuật đóng ghép thuyền đã làm ngạc nhiên nhà khảo cổ Peter Bellwood, dùng lỗ mộng trên ván (mortise) và gỗ mộng (tenon) để nối các mảnh gỗ: một kỷ thuật mà chỉ người La Mã ở Địa Trung Hải trước đây dùng. Phải chăng có sự liên hệ giữa người Đông Sơn và thế giới La Mã ?.
Nhà nhân chủng học và khảo cổ Việt Nam Nguyễn Văn Việt, học trò của nhà sử học nổi tiếng Hà Văn Tấn, chuyên về kiến tạo lại gương mặt người qua xương sọ. Ông Việt học từ Đan Mạch các khóa học nắn đúc dùng đất sét và để tái tạo lại gương mặt từ xương sọ, ông dùng phương pháp của nhà nhân chủng học người Nga Mikhail Gerasimov mà ông đã học và được biết trước đây. Việt là người đầu tiên ở Việt Nam dùng xương sọ để kiến tạo lại gương mặt người xưa. Hình 6 cho thấy bộ mặt của hai người Đông Sơn mà ông đã tái tạo. Công trình của ông đã gây nhiều thảo luận trong giới nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học ở Việt Nam. Nguyễn Lan Cường, nhà khảo cổ nghiên cứu về văn hóa Hòa Bình và Đông Sơn trước đây (6), cho rằng phưong pháp tính toán cơ mặt của ông Việt vẫn còn có nhiều sai số. Tuy vậy ông Cường nói sẽ tiếp nối công việc của Việt trong vài năm tới để tái tạo lại gương mặt và chủng tộc của người Hòa Bình sống cách đây 10000 năm.
Lời kết
Hiện nay chưa ai tái tạo lại hình ảnh người Hòa Bình qua một số rất ít xương sọ tìm được nguyên vẹn vì phần lớn đã bị mũn. Tôi hình dung người Hòa Bình qua các người của các bộ lạc sống biệt lập trong rừng còn sót lại ở Đông Nam Á và người liên hệ là thổ dân Úc. Tôi sống ở Úc đã lâu và có nhiều cơ hội gặp và tiếp xúc với thổ dân Úc. Tôi còn nhớ lúc còn là sinh viên cách đây hơn 25 năm, cả trường đại học Sydney chỉ có một sinh viên gốc thổ dân duy nhất trong số hơn 10000 sinh viên. Hiện nay thì đã có nhiều tiến bộ về tình trạng thổ dân trong xã hội so với trước đây nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn về mức sống . Đa số ít có cơ hội tiến thân trong xã hội.
Ở đảo Tasmania (một tiểu bang của Úc), họ đã bị tuyệt chủng từ cuối thế kỷ 19. Mặc dầu có nhiều bộ lạc khác nhau, nhưng trên toàn lục địa thổ dân hầu như không khác nhau và không thay đổi nhiều trong 50000 năm qua. Họ là người cổ nhất, nhóm người đầu tiên đến từ Phi châu dọc theo ven biển Arabia, Ấn Độ, và Sundaland. Xương tìm thấy ở di chỉ khảo cổ hồ Mungo (nay đã cạn) được định tuổi là hơn 50000 năm, cổ hơn tất cả các xương người hiện đại đã tìm thấy ở Đông Nam Á. Sự thuần chủng của người thổ dân Úc và mối liên hệ của họ với người đảo Andaman và người còn sống trong rừng ở Mã Lai và Phi Luật Tân cho ta nhận diện chung về hình ảnh của người “Hòa Bình” xưa, tổ tiên của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á và Nam Trung quốc.
Tài liệu Tham khảo

(1)     Penny van Oosterzee, “Where worlds collide - The Wallace line”, Reed Books Australia, 1997.
(2)     Vietnam news Agency, Ancient faces brought to life, 14/08/2005,http://vietnamnews.vnagency.com.vn/showarticle.php?num=01SUN140805
(3)     Hirofumi Matsumura , Majid Zuraina, Metric analyses of an Early Holocene human skeleton from Gua Gunung Runtuh, Malaysia, Am J Phys Anthropol 109:327-340, 1999.
(4)     Nguyễn Khắc Sử, Hang Con Moong-Giới thiệu và nhận xét, Khảo Cổ Học, tr. 26-35, số 2(22), 1977.
(5)     Nguyễn Huy Thông, Hang Con Moong-Một phát hiện khảo cổ học đáng chú ý ở Việt Nam, Khảo Cổ Học, tr. 36-43, số 2(22), 1977.
(6)     Nguyễn Lan Cường, Di tích người cổ, Khảo Cổ Học, tr. 24, số 2(22), 1977.
(7)     T. Hanebuth, K. Stattegger, P. M. Grootes , Rapid Flooding of the Sunda Shelf: A Late-Glacial Sea-Level Record, Science 12 May 2000, Vol. 288. no. 5468, pp. 1033 – 1035.
(8)     J. Cox, Climate Crash: Abrupt Climate Change and What It Means for Our Future, JHP Press, 2005.
(9)     F. Ricaut, M.Bellatti, M. Lahr, Ancient mitochondrial DNA from Malaysian hair samples: Some indications of Southeast Asian population movements, Am J Hum Biol. 2006 Sep-Oct;18(5):654-67.
(10) K. Thangaraj, L. Singh et al, Genetic Affinities of the Andaman Islanders, a Vanishing Human Population, Current Biology, Volume 13, Issue 2 , 21 January 2003, Pages 86-93.
(11) Hà Văn Tấn chủ biên - Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Viện khảo cổ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.
(12) S. Pellekaan, M. Ingman, J. Roberts-Thomson, R. Harding, Mitochondrial genomics identifies major haplogroups in Aboriginal Australians, American Journal of Physical Anthropology, Volume 131, Issue 2 , April 2006, Pages 282 – 294.
(13) R. Stone, When in Vietnam, build boats as the Romans do, Science 21 Apr 2006, Vol. 312, no. 5772, pp 360-361