Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

HÀNG HẢI NƯỚC VIỆT XƯA, phần 2


6. Thương mại ở Nam Hải
Đã có nhiều sách do người Âu Á Mỹ đề cập đến các hoạt động thương mại vùng Đông Nam Á, nhiều ít nói tới những kỳ công của người Việt cổ trong ngành hàng hải, cận duyên cũng như viễn duyên.
Trong sách "Eighth Voyage of the Dragon - History of China's Quest for Sea Power", Hải quân Học hiệu Annapolis ấn hành năm 1982, Bruce Swanson đã mở đề chương 1 như sau: "Lịch sử hàng hải Trung Hoa trong ngàn năm qua biểu thị đặc tính nơi sự đối kháng giữa hai thực thể văn minh lớn: nước Tàu có tính cách lục địa, ảnh hưởng Khổng Tử và nước Tàu có liên quan đến biển. Nước Tàu ở phần trên bộc phát từ khi thống nhất trung tâm miền Bắc, gồm nhiều nước khác biệt hồi chiến quốc, vào năm 221 TTL. Suốt hai ngàn năm sau đó, hai triều đại nhà Hán (220 TTL.- 221) và nhà Đường (618- 907) đã biến đổi Trung Hoa thành một đế quốc tráng lệ, có căn bản văn hoá lục địa (landbased cultural empire)".
Sau đó Bruce Swanson lại mở đầu chương 2 với lời khẳng-định: "Thời đại hàng hải của Trung Hoa thực sự bắt đầu vào thế kỷ thứ 8, thứ 9 khi dân số miền Bắc nước Tàu tăng lên tới ba lần và khí hậu thay đổi làm suy giảm số lượng đất canh tác."
Trên quan điểm của một người Á Đông, Wang Gungwu đã làm một cuộc nghiên cứu về giao thương thời cổ trong biển Nam Hải. Sau đó, vào tháng 6 năm 1956, để phổ biến kết quả của công trình đó, cơ sở xuất bản Journal of the Malayan Branch Royal Asiatic Society cho phát hành một tập sách nhan đề "The Nanhai Trade - A Study of the Early History of the Chinese Trade in the South China Sea".
Wang mô tả khá đầy đủ về những hoạt động hàng hải trong khoảng 11 thế kỷ trước khi thành lập triều đại nhà Tống, năm 960. Theo đó, sau khi đế quốc Nam Việt của nhà Triệu bị sụp đổ, dân Việt vẫn tiếp tục nắm giữ hầu hết ngành hàng hải dọc duyên hải hay đường viễn duyên đến các nước Đông Nam Á và Ấn Độ, như đã từng nắm giữ trước kia. Đặc biệt hải cảng sầm uất hàng đầu vùng Đông Nam Á vẫn là Long Biên (Hà Nội ngày nay) với vùng hậu cảng trù phú nhất là quận Giao Chỉ. Quận này đóng góp thuế má cho hoàng đế Trung Hoa rất đáng kể, số dân đinh của Giao Chỉ cao hơn tổng số tất cả số dân đinh của 6 quận khác còn lại ở miền Nam Trung Quốc cộng chung. Mọi hàng hoá chuyên chở đường biển ra vô nước Tàu đều từ Giao Chỉ mà ra vô. Đôi khi Quảng Châu được chia sẻ một phần nhỏ hoạt động hàng hải nhưng người Việt cũng vẫn luôn luôn nắm giữ hệ thống thương thuyền. Phải đợi đến thời Ngũ Đại (907-960) và sơ diệp nhà Tống (960-1279) những thương buôn mới, người Tàu Việt (Chinese- Yueh) bắt đầu xuất hiện. Họ là người Việt bị Tàu hoá hay người Tàu tiêm nhiễm thói thích biển của người Việt bằng cách lập nghiệp chung với họ.
8 - Đường biển đi Đông Nam Á và đi Tây Bá Lợi Á
Người Tây phương thường nói "cứ có thuyền là đi biển được". Người Việt đóng được thuyền; mà thuyền người Việt lại thật tốt. Việc hải thương của dân Việt trong thời thượng cổ cùng các dân cư khác nằm quanh vùng Biển Đông rất phồn thịnh. Trước Tây lịch 6, 7 thế kỷ, chiến thuyền Lạc Việt thời Hùng Vương đã có hai sàn, những cây nỏ thần được thiết trí ở trên, người chèo và lái ở dưới. Nhiều kiểu thuyền trang bị đầy dủ cả bánh lái phía đuôi, mái chèo lái bên cạnh, cây xiếm cố định ... Hình ảnh được ghi khắc trên nhiều chiếc trống đồng tìm thấy tại lưu vực các sông Mã, sông Hồng.
Một số chiến thuyền Đông Sơn
Những hải trình thương mại tại Đông Nam Á thời cổ đại (500.BC – 750 AD) ( Ancient trade routes )
Cùng thời này, Trung Hoa đang trải qua giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc. Tại một nước Việt khác mà vua là Việt Vương Câu Tiễn, thủy quân rất mạnh. Quân đội nhà vua thường được chuyển vận bằng đường thủy để hành quân xa căn cứ hàng trăm hải lý.
Trống đồng Đông Sơn tại Đông Nam Á ( Dong Son bronze drums in South East Asia )
Họa tiết mặt trống Đông Sơn tại Battambang (Cambodia), Klang & Tembeling (Malaysia)
Trống đồng Đông Sơn tại Lào
Trống đồng Đông Sơn tại Cambodia
Trống đồng Đông Sơn tại Thailand
Trống đồng Đông Sơn tại Sungai Lang (Malaysia)
Trống đồng Đông Sơn tại phía đông Indonesia (Dong Son bronze drums in eastern Indonesia)
Trồng đồng Đông Sơn tại tại Selayar, Indonesia
Trống đồng Đông Sơn tại Lubuan Meringgai và Panca Tunggal Jaya (Indonesia)
Thạp đồng Đông Sơn tại đảo Flores, Indonesia.
Rìu đồng Đông Sơn tại Indonesia.
Tài liệu của Ông Herrmann viết vào năm 1913 vẫn còn được bàn cãi. Gần đây, khi các giả thuyết "Đông Nam Á, một trong những cái nôi văn minh của nhân loại" bắt đầu được phổ biến rộng rãi, Tiến sĩ Wilheim G. Solheim II lấy căn cứ vào chứng tích khảo cổ mới nhất, tin tưởng rằng đã có những liên lạc trực tiếp giữa Việt Nam và Địa Trung Hải hơn 2,000 năm trước đây. Nhờ hải thương, văn hoá được trao đổi giữa hai vùng Ba Tư (Persia)/ Trung Đông và Việt Nam/ Đông Dương. Những ảnh hưởng sâu đậm trên một số khía cạnh sinh hoạt kể từ trước Công Nguyên đã được học giả Shahab Setudeh Nejad (1996) tường trình hồi gần đây trong bài " Cultural and Cosmological Impact of Iranian Civilization in Vietnam and Peninsular Areas of Southeast Asia ".

10 - Đường biển tới Phi Châu

Các nhà khảo cứu Âu Á Mỹ ngày nay nghiên cứu các sách sử Trung Hoa, Ấn Độ, La Mã để tìm hiểu về thương mại ở Ấn Độ Dương trong những thiên kỷ trước Tây lịch. Nhiều người tin tưởng rằng dân Việt cổ là những nhà thương buôn gan dạ, đã vượt biển tới các đảo ngoài Ấn Độ Dương và đi xa tới tận Ethiopia thuộc Phi Châu.
The Spice Route in Greco-Roman times

Sách sử đầu tiên ghi chép đến những chuyến đi Á Phi này là pho Tiền Hán Thư của Ban Cố và Ban Chiêu. Những đoạn có ghi nơi khởi hành và bến quay về của Sứ Tàu quá giang như sau: "Từ Nhật Nam, Giao Chỉ đi bằng thuyền buôn người Man Nam năm tháng sau tới xứ Tu Yuan... Nếu không bị cướphay gặp bão, nhiều chuyến đi dài tới nhiều năm... Người ta nói phía Nam xứ Huang Chih là xứ Ssu Chhêng Pu. Đến chỗ này thì Sứ Hán quay về".

Hải trình “gia vị” với hải cảng Cattigara ( The Spice Route in Greco Roman times )

11 - Đường biển về hướng Đông 

Những con đường biển người xưa sử dụng đến nay còn ghi lại trên các sinh hoạt của cư dân tại đấy. Thế giới hàng hải cổ thời cho thấy đã có một vòng cung liên tục ghi nhận ảnh hưởng của thuyền bè và văn hóa nước lên nhiều khu vực:


Hình thuyền thân cong, Mái nhà cong và Totem được tìm thấy trên khắp vòng cung Thái Bình Dương trong cổ thời. (Hình lấy từ bản đồ của Covarrubias, 1940: thuyền thân cong, totem, nhà ở Bắc Mỹ và New Zealand). Mái nhà cong và thuyền trên trống Đông Sơn tại Việt Nam. 
Hình nhà trên trống đồng Hoàng Hạ

Hình nhà trên trống đồng Ngọc Lũ

Batak, Indonesia


Tongkonan – Toraja (Indonesia)

Tongkonan, Indonesia

Trong cuốn sách "America en la Prehistoria Mundial" (Mỹ Châu trong Thế giới Tiền sử), Dick Edgar Ibarra Grasso đưa ra quan niệm là không thể có sự cô lập ở Mỹ Châu. Sách gồm 6 chương thì có tới hai chương chú tâm bàn luận đến ảnh hưởng Đông Nam Á trên đất Mỹ Châu. Chương I bàn tới các lien hệ văn hoá xuyên dương mà Đông Sơn là một nguồn chính. Đến chương IV, Grasso đưa ra hai giả thuyết về:

(1) Những thương nhân Cattigara đã mang kỹ thuật luyện kim, nhất là đồng và vàng, tới Nam Mỹ.

(2) Có nhiều di dân đến Tân thế giới bằng cách dùng hải lộ xuyên Thái Bình Dương.

Đã có nhiều nhà nghiên cứu viết tiếng Tây Ban Nha phát biểu cùng ý kiến với Grasso. Học giả Pedro Bosch Gimpera cho rằng nền văn minh Đông Sơn đã mang lại những hiểu biết về kỹ thuật luyện kim cho vùng Chavin ở Peru.

Edwin Doran nổi tiếng nhờ đã khám phá ra nhiều hiểu biết mới lạ về khả năng vượt đại dương của bè và ghe nhỏ. Ông và Stephen Jett đồng ý với nhau là liên lạc giao tiếp xảy ra trước nhất giữa Á và Mỹ Châu có thể qua phương tiện là những chiếc bè chạy buồm có gắn cây xiếm như thường thấy ở trung phần Việt Nam và Đài Loan.
Hình trên: Thuyền Đông Sơn, ngoài 2 mái chèo để lái ra (1), còn có 2 trang cụ như cây xiếm dùng chống giạt (2). Cột buồm nằm ở nửa phần thuyền phía trước (3).

Hình dưới: Ghe Nang ở trung phần Việt Nam với giả thuyết về sự phát triển bánh lái và cây xiếm từ những trang cụ đã có từ cổ thời.
Robert Von Heine Geldern trong suốt một phần tư thế kỷ kể từ 1939, đã viết rất nhiều về giao tiếp Á Mỹ. Ông liệt kê thành hệ thống những điểm tương đồng, lưu tâm khá nhiều đến nền văn minh Đông Sơn, ông cho rằng những dân đi biển ở Đông Á tới Mỹ Châu trước hết.


HÀNG HẢI NƯỚC VIỆT XƯA, phần 1

HÀNG HẢI NƯỚC VIỆT XƯA 
Vũ Hữu San
Phần 1: KHOẢNG TRỐNG VĂN HỌC DÂN TA: NHỮNG THÀNH TÍCH HÀNG HẢI
1 - Trong những thành tích hiển hách của tiền nhân
Ngày nay, trong những buổi lễ lạc, đa số các vị được lên diễn đàn để nói thì hầu hết đều ca tụng những chiến công hiển hách của của tiền nhân.
Tuy vậy, qua hàng trăm, ngàn bài diễn văn người ta chưa thấy hoạt động hàng hải của tổ tiên được nhắc nhở tới. Trong những công trình dựng Nước, mở Nước, giữ Nước trên vùng đất nước quê hương mà sông biển bao trùm khắp nơi, sự hy sinh vì nghĩa vụ với "thân xác tử sĩ chìm theo sóng nước" nhiều hơn số người "da ngựa bọc thây". Cũng ít ai từng nhắc tới công lao người chiến binh suốt những năm tháng dài đấu sức với ba đào, thi gan cùng sương gió ngoài khơi để bảo vệ hải biên, giữ gìn an ninh cho hệ thống đường thủy, hay khuyếch trương hải thương mong cho nước giàu, dân mạnh... Và tuyệt nhiên, chưa bao giờ có ai nhắc nhở tới thành tích hiển hách mà chúng tôi xin kể sau đây: những chuyến đi xuyên dương nhiều ngàn năm trước của tiền nhân Việt tộc.

2 – Thương mại và văn hoá
Trong khi sinh hoạt với sông biển, người Việt cổ đã tạo dựng được nhiều thành tích, những truyền thống hàng hải lâu đời của dân tộc vẫn còn tồn tại đến ngày nay, cho dù hầu hết thành tích của tiền nhân đã bị thời gian chôn vùi vào quên lãng. Thật thế, ảnh hưởng của các nền văn minh cổ thời Hoà Bình, Đông Sơn rất bao la, vết tích các nền văn minh này đi lên Đài Loan, Nhật Bản, Tây Bá Lợi Á; qua Phi Luật Tân, vùng Đa Đảo; xuống Nam Dương, Úc Châu và sang tận Mã Đảo, Phi Châu. Công việc chuyển vận hải thương đã lôi kéo theo sự truyền bá văn hoá trên các bờ biển và hải đảo xa vắng mà đôi chân con người không thể tới được bằng đường bộ.

3 – Người Việt và biển cả
Sau đây người viết xin trình bày khả năng hàng hải của dân ta qua những lời phê bình của người Tây phương. Nhiều lời khen ngợi dân Việt đi biển được dẫn lại trong sách của Jean Chesneaux, cuốn "Contribution à l'histoire de la nation Vietnamienne", bản dịch Anh ngữ: "The Vietnamese Nation - Contribution to a History" Nhật ký của George Windsor Earl : Nhà hàng hải George Windsor Earl viết trong sổ nhật ký của ông trên đường dẫn lộ một chiếc thương thuyền đến Singapore vào đầu thế kỷ thứ 18 như sau: "... Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương thuyền của chúng tôi bị gẫy đổ cả cột buồm. Thời tiết đã tiếp tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra 6 chiếc thuyền nhỏ của người Việt Nam đang giương hết mọi cánh buồm tiến thẳng tới trước. … Tôi nghĩ (lời Thuyền trưởng George Windsor Earl): Mấy người Việt đó đang lèo lái những con thuyền bé nhỏ mà cách thức vận chuyển để vượt sóng lượn gió thật là tài tình. Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy thủ đoàn hạng nhất nào của toàn khu vực Âu Châu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không có một chiếc nào vượt quá 50 tấn, vậy mà những người đi biển này có thể đè bẹp cả sóng gió Biển Đông vào giữa mùa bão tố. Đã qua 20 năm rồi, rất ít thương thuyền nào của công ty chúng tôi dám thử hải hành trong giữa mùa biển động như vậy..." Ông còn viết thêm nhiều câu rất cảm động, thí dụ như: "Thật thú vị nếu được quen biết với những người Việt Nam này. Tính tình họ năng động, ngôn từ lại hoạt bát như dân Pháp. Khi đến buôn bán ở Singapore, họ đã phải khéo léo trong sự cạnh tranh. Hoàn cảnh sinh hoạt của họ thật sự khó khăn vì chính sách bế môn tỏa cảng của triều đình Việt Nam. Họ rất can đảm khi xuất dương. Thuyền họ lại không trang bị vũ khí và như thế có thể là miếng mồi ngon cho bọn hải tặc". Những câu khen ngợi đó có thể nói là không tiếc lời. Sự suy tôn về nghề nghiệp, đề cao về nhân cách cùng khâm phục lòng can đảm như vậy rất hiếm hoi trong giới hành thủy. Thủy thủ Việt trong báo cáo của John Crawfurd : Bác sĩ Crawfurd đươc chính phủ Anh đề cử làm đại sứ tại hai kinh đô Bangkok và Huế năm 1822. Tuy bị thất bại trong công tác thành lập một thương cảng tại Việt Nam, ông vẫn giữ những cảm tính sâu đậm với giới hành thủy Việt Nam. Bác sĩ Crawfurd có nhận xét về khả năng hàng hải của dân ta trong mục báo cáo số 145 như sau: "... Nếu như người Việt Nam được phép tự do viễn dương thì người ta không thể tìm đâu ra được một sắc dân nào nữa ở Á Đông mà lại có đầy đủ những đức tính để trở thành các nhà hàng hải siêu đẳng như vậy... Tính họ không những cương quyết, năng hoạt động, tôn trọng hạn kỳ, mà lại luôn luôn vui vẻ chiều lòng khách hàng... Ghe tàu của họ được các nhà chuyên môn xét đoán và mô tả như là những loại thuyền tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á, kiến trúc rất chắc chắn, đủ sức hải hành ngay cả những khi thời tiết xấu nhất." Thêm vào các nhân chứng (người Anh) này, hai người Pháp (Chaigneau và Vannier) đã làm quan trong triều đình Việt Nam và cũng đã từng làm hạm trưởng các chiến hạm loại trang bị 16 súng đại bác với thủy thủ đoàn hoàn toàn Việt Nam, bảo đảm rằng họ là những thủy thủ can đảm và thật lành nghề. Nhận xét của John White : Thuyền trưởng White là một trong những nhà hàng hải Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1820. Ông có dịp thăm viếng thủy xưởng sau này là Hải quân Công xưởng Sài Gòn, cho biết người Việt Nam là những nhà kiến trúc tàu bè có khả năng kỹ thuật cao nhất, hoàn tất công tác thật chính xác. John White còn xem xét các ván gỗ đóng thuyền, Ông rất ngạc nhiên là những hải xưởng Việt Nam thời đó lại có đầy đủ vật liệu cho việc kiến trúc đến cả loại tàu lớn nhất như Frigate (tức loại chiến hạm chủ lực của Hải quân Hoa kỳ sử dụng vào đầu thế kỷ 19). Ông tận mắt nhìn thấy một tấm gỗ dài rộng tới 120 ft x 4 ft . Vì khổ này lớn quá, gỗ lại rất tốt; vị Thuyền trưởng Mỹ suy ra rằng rừng Việt Nam sản xuất được những loại cây gỗ dùng đóng tàu thuyền rất tốt.

4 - Hải sử và Bách khoa
Chính sử của nước ta ghi lại được một số hoạt động hàng hải lẻ tẻ, nhưng tiếc rằng phần viễn duyên rất ít tài liệu và đặc biệt các hoạt động xuyên dương của dân ta chưa bao giờ được đề cập đến. Những người ngoại quốc, khi muốn tìm hiểu về truyền thống hàng hải của người Việt trong cổ thời, đã gặp nhiều khó khăn. Cho đến hậu bán thế kỷ 20 này mới có một người Việt Nam đầu tiên viết một cuốn sử nhỏ bằng ngoại ngữ với mấy đoạn đề cập sơ sài đến các hoạt động hải thương của dân ta ở Nam Hải trong thời Bắc thuộc. Đó là ông Lê Thanh Khôi với cuốn "Le Vietnam, Histoire et Civilisation", xuất-bản năm 1955 ở Paris, France. Vậy mà ông còn bị một tác giả khác cũng người Việt Nam phê bình là nói quá đáng. Không phải chỉ người nước ngoài không biết đến nền cổ hàng hải Việt mà có cả những người Việt cũng khiếm khuyết những kiến thức tương tự như vậy ! Muốn đi tìm những thành tích của cổ nhân, chúng ta cần cố công tìm thêm tài liệu qua sách vở quốc tế. May mắn thay, trong cộng đồng nhân loại không thiếu những học giả quan tâm nghiên cứu tới những vấn đề hệ trọng này. Bách khoa từ điển The New Encyclopaedia Britanica xuất bản những năm gần đây, về từ mục Dongson Culture ghi như sau: "Đông Sơn không những chỉ riêng là văn minh đồ đồng mà cũng có đồ sắt nữa. … Người Đông Sơn là dân đi biển, có thể đã hải hành và thương mại khắp vùng Đông Nam Á Châu".
 


Trống đồng Đông Sơn tìm được khắp khu vực Đông Nam Á.
Chứng tích quan trọng của nền văn hoá Đông Sơn ghi nhận trên các trống đồng cũng cho ta nhìn thấy một phần nào khía cạnh truyền thống hàng hải của cổ nhân. Quang cảnh được trình bày rất phong phú trên hầu hết các cổ vật là sự sinh hoạt trên thuyền. Có người chuẩn bị tác chiến, có người như nhảy múa cùng bầy chim, đặc biệt lại có người giã gạo. Chắc đây là những chuyến đi xa, kéo dài hàng tháng đến những vùng đất xa lạ nên họ vừa đi vừa chuẩn bị thức ăn.
 
5 - Hải trình Địa Trung Hải / Đông Dương
Trong sách "The Junks & Sampans of the Yangtze", G. R. G. Worcester đã viết về hải lộ thông thương từ Âu Châu qua Ả Rập, Ấn Độ đến vịnh Bắc Việt, cho rằng Hà Nội đúng là trạm hải hành cuối cùng giữa Tây phương và Đông Á trong cổ thời. Worcester hình dung một "hải trình tơ lụa" như sau: "...có thể đã có những ảnh hưởng qua giao tiếp đường biển rất sớm sủa với dân Địa Trung Hải, vì người ta tin rằng những thương gia Phoenicia trên hải trình tìm kiếm "đường tơ lụa", đã tới Đông Dương vào năm 650 TTL". Vào thời đó, nước Văn Lang của chúng ta đang lúc thịnh thời và do các vua Hùng (2879-258.TTL) trị vì. (TTL : trước Tây lịch ~ BC)
 
Những hải trình tơ lụa giữa Địa Trung Hải và Đông Á mà trạm chót là Cattigara. (Vẽ theo "Exploring Our Country", Stuart Hamer, Follett, Ahlschwede, Gross, Sacramento 1956: 25.) Hán sử chép rằng vua Vũ Đế tạo lập một đường biển tới Ấn Độ và vào năm 140 TTL, chuyến hàng gồm có vàng và tơ lụa được đem tới một thành phố gần Madras. Phương tiện chuyên chở cho đường hàng hải này do người Việt (mà người Trung Hoa thường gọi là Nam Man) phụ trách.

Con đường tơ lụa ( Silk Road in Greco Roman times )
 
“Hải trình” tơ lụa với hải cảng Cattigara. 
Silk Road (maritime trade route) Chúng ta đọc được hai ý kiến chính xác sau đây: Lin Yu, viết trong nguyệt san "T'ien Hsia Monthly", cho ý kiến rằng lúc xưa người Man đi tàu biển. Cho đến cuối triều đại Lưu Tống (Nam triều, năm 420-479), có thể người Trung Hoa mới bắt đầu đóng tàu thuyền cho việc hải thương. Friedrich Hirth và W. W. Rockhill, tác giả của nhiều sách và bài khảo cứu về hàng hải Á Châu, quả quyết rằng vào đầu công nguyên, không thể có một tàu thuyền nào của Trung Hoa hoạt động trong Ấn Độ Dương, mặc dù người Trung Hoa thường quá giang theo tàu thuyền của dân Nam Man.

Eratosthene (275-195 TTL) viết sách Geographia, Ptolemy (90 AD -168 AD) phát triển môn địa lý, viết sách và hình dung ra một bản đồ thế giới mà tận cùng về phía Đông Đông Nam là bán đảo Vàng Chersonese và hải cảng Kattigara (kinh độ 117 độ Đông, vĩ độ 8 độ Nam – Kinh tuyến gốc lấy từ đảo Ferro Islands of the Blest - quần đảo Canary.) Nhiều người cho rằng bán đảo Vàng là Đông Dương và Kattigara (hay Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long Biên (Lugin) hay Hà Nội ngày nay.
Bản đồ Ptolemy




Vị trí hải cảng Cattigara trên bản đồ Ptolemy




Nói riêng về từ ngữ hàng hải, ta có thể hiểu theo như nghĩa người Bắc Âu thường dùng: Kati là tàu thuyền, Gata là hải đạo. Như vậy chữ Kattigara nghĩa là chỗ hải cảng tàu thuyền hải hành tới.

Ông Bình NguyênLộc không thỏa mãn với vị trí ước đoán cho rằng Kattigara nằm trong vùng Kẻ Chợ Hà Nội, mà nghĩ rằng Kattigara có thể là thành phố ghe thuyền. Ông suy ra tên Kattigara chính là địa danh của thương cảng Hòn Gai như ta vẫn gọi ngày nay.
Vị trí Hòn Gai trong Vịnh Hạ Long
Tác giả sách "Ancient India as Described by Ptolemy" là J. W. McGrindle, nơi trang 9, ghi chú : "Trung Hoa trong gần 1,000 năm đã được biết như là quốc gia nằm trong nội địa Á Châu (inner Asia)". Tại trang 26, ông viết: "... với lý thuyết rằng Kattigara, điểm xa nhất về phía Đông tới được bằng đường biển, phải nằm gần hay trên cùng kinh tuyến với nước Trung Hoa, điểm xa nhất đi đến được qua đất liền".



Vị trí Cattigara trên các bản đồ cổ Âu Châu (phỏng theo "Ancient History Atlas" Michael Grant, Cartograph by Arthur Bank, Mcmillan Publishing Co., Inc., New York, 1971: 75)




Từ trước thời Bắc thuộc, lưu vực sông Hồng, sông Mã đã là những trung tâm hàng hải cùng thương mại phồn thịnh, hàng hoá đi khắp nơi và có liên lạc thường xuyên với Tây phương. Mối giao thương này chắc chắn sâu đậm đến mức độ tất cả những bản đồ thế giới do Tây phương ấn hành suốt 13 thế kỷ sau đó, đều cố ghi địa danh Kattigara. Tuy vậy vì chưa biết sự hiện hữu của Mỹ Châu và Thái Bình Dương nên trên tất cả bản đồ cũng như cầu đồ, vị trí của Á Đông được vẽ quá gần với Âu Châu. Các hải đồ này cho thấy hình dạng bán đảo Vàng thật sai lầm kèm với vị trí hải cảng nước ta nằm trên tọa độ quá xa về hướng Đông (sai tới 55 độ kinh tuyến) và cũng quá xa về hướng Nam (sai tới 30 độ vĩ tuyến).

Lý do sự lầm lẫn lớn lao này của Ptolemy được Robert R. Newton phân tách và giải đáp chính xác trong "The Crime of Claudius Ptolemy" ấn hành năm 1977.

Dù Ptolemy thật sự mắc “trọng tội" (crime) hay không, Kattigara vẫn nằm trong tâm tưởng những nhà hàng hải Tây phương thời Trung cổ, nhiều ít thúc đẩy việc thực hiện những chuyến viễn hành và gián tiếp đưa đến biến cố Columbus tìm ra Mỹ Châu. Ai ai bên Âu Châu cứ cũng tưởng rằng nếu dong buồm hải hành về hướng Tây-Tây Nam là sẽ tới được hải cảng Cattigara. Họ nghĩ Á Châu nằm rất gần đâu đó ở bờ bên kia của Đại Tây Dương !
Những hải cảng nằm trên “hải trình gia vị” giữa Địa Trung Hải và Đông Nam Á (The spice trade from Mediterranean to South East Asia). Hải cảng Cattigara được xác định tại vịnh Bắc Việt.



Cho đến khi qua đời vào năm 1506, Kha Luân Bố (Christopher Columbus) không bao giờ từ bỏ niềm tin tưởng là ông đã thực sự đặt chân tới ven bờ biển Á Châu. Xem xét những tài liệu mà giai đoạn đó còn để lại, người ta thấy các nhà hàng hải Âu Châu thời Trung Cổ bận tâm rất nhiều đến việc làm sao đưa tàu tới được Kattigara.

Chắc chắn là phải có sự phán quyết nào đó của Kha Luân Bố rằng "hải cảng ước mơ" nằm gần đâu đó trên hải trình thám hiểm, nên người em của ông là Bartholomew Columbus (Bartolome Colon) mới ghi tên Cattigara một cách phỏng định (?!) lên bản đồ vùng đất xa lạ "Tân Thế Giới", tức Nam Mỹ Châu.

Magellan cũng lưu tâm đến vị trí Cattigara rất nhiều. Sau khi từ Đại Tây Dương vào được Thái Bình Dương, ông dẫn hải đội dọc theo bờ biển Chí Lợi, viên thư ký giữ tài liệu hải hành của ông là Pigafetta có vẻ bi quan khi nói rằng :"Cái mũi đất Cattigara mà ngay cả những nhà "Vũ trụ học" (!) cũng chưa nhìn thấy thì lúc này không những chẳng thể nào tìm ra mà chúng ta cũng không thể tưởng tượng được là nó ở vào chỗ nào!"

Trong khi băng ngang qua Thái Bình Dương, Magellan ra lệnh cho đoàn tàu đi hơi chếch lên phía Bắc bán cầu để tiếp tục hy vọng tìm ra cảng mơ ước này nhưng cuối cùng đã thất bại. Đoàn thám hiểm gồm toàn những tay lang bạt kỳ hồ đó, không những chẳng thấy Cattigara, mà nhiều người đã cùng chung số phận với Magellan, đành bỏ xác lại ở vùng đảo Phi Luật Tân.

Thật lạ lùng là sau chuyến đi của Marco Polo (thế kỷ 13), các nhà địa lý đã không sửa được bản đồ cho đúng, mà cả sau khi Magellan mất mạng trên đường đi vòng quanh thế giới (năm 1521), tọa độ địa dư của Kittigara vẫn giữ nguyên như cũ. Địa danh hải cảng này do đó được tiếp tục ghi trên lục địa Mỹ Châu trong nhiều thế kỷ. 

Hình phác thảo bởi Bartolome Colon (Columbus) năm 1505. Cattigarra được phỏng định là ở Nam Mỹ.




Hình của Bartolome được Grasso vẽ lại.

Dựa theo bản vẽ của Bartolome, Grasso vẽ lại hình thể địa cầu "giả tưởng". Từ phải sang trái: Âu Châu, Tân thế giới, Cattigara (Á Châu), Ấn Độ, và Phi Châu

Học giả phương Tây xuyên tạc lịch sử phương Đông như thế nào?


Học giả phương Tây xuyên tạc lịch sử phương Đông như thế nào?

Hà Văn Thùy
Hơn thế kỷ qua thế giới tin rằng, theo bước nhà truyền giáo và lính lê dương, các học giả đã mang “ánh sáng văn minh phương Tây” sang khai hóa các dân tộc lạc hậu phương Đông! Nhưng về thực chất, vì quyền lợi ích kỷ của mình, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã thực thi chính sách thực dân tàn bạo, không chỉ khai thác thuộc địa, bóc lột tài nguyên, nhân lực mà còn áp đặt nền văn minh xa lạ, tàn phá văn hóa truyền thống phương Đông. Riêng về lịch sử, học giả phương Tây đã xuyên tạc lịch sử phương Đông, gây hậu quả nghiêm trọng đến tận hôm nay...
I. Lịch sử phương Đông trong cái nhìn nguyên sơ
Có một truyền thuyết Trung Hoa nói rằng, khoảng 2600 năm TCN, họ Hiên Viên thống lĩnh các bộ lạc du mục Tây Bắc, tấn công liên quân Việt ở Trác Lộc trên Hoàng Hà. Thủ lĩnh Bách Việt là Si Vưu bị diệt, người du mục kéo vào vùng hoàng thổ, lập nhà nước đầu tiên của dân tộc Trung Hoa, tôn xưng Hiên Viên làm Hoàng Đế.
Hoàng Đế truyền cho Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đế Du Võng, Đế Chí, Đế Cốc tới Đế Nghiêu (2347-2246 TCN) rồi Đế Thuấn (2355-2204 TCN). Nghiêu và Thuấn được coi là thời đại hoàng kim của dân tộc Trung Hoa với nền quân chủ thịnh trị, xây dựng được điển chương, vua sáng, tôi hiền, dân an.
Một câu hỏi nảy sinh: vì sao chỉ trong vòng 250 năm mà người du mục vừa rời những đồng cỏ chăn cừu, trên lưng ngựa chiến xuống nam Hoàng Hà đã xây dựng được xã hội nông nghiệp văn minh như vậy? Phải chăng đó là gia sản mà người du mục mang từ hoang mạc xuống? Câu trả lời là không! Nền văn hóa nông nghiệp không thể do dân du mục mang tới!
Câu hỏi khác: vì sao sau những Thiếu Hạo, Chuyên Húc lại là những vị đế mang tên Việt như Đế Chí, Đế Cốc…? Tuy không lời đáp suốt mấy nghìn năm nhưng trong linh cảm, người ta tin rằng những vị này dính dáng tới nguồn gốc Bách Việt!
Kinh Dịch, tương truyền là của người Trung Hoa, trong Hệ từ hạ ghi:
“Thời cổ họ Bào Hy trị thiên hạ: ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xét hình đất. Quan sát từng dáng điệu của thú và chim để thích nghi vào mọi miền. Gần thì suy trực tiếp nơi mình; xa thì gián tiếp từ sự vật đặng thông với linh đức của thần minh, hầu có thể phân loại tính tình của vạn vật đặng mà điều lý. Kết nút dây để làm lưới làm vó đặng đi săn và đánh cá. Khi họ Bào Hy qua thì họ Thần Nông lên thay, đẽo gỗ làm lưỡi (cày) uốn gỗ làm cày: dạy cho thiên hạ biết nguồn lợi của sự cày bừa. Tất cả đều lấy hứng từ quẻ Ích”. 
Phục Hy (4480-4369 TCN) sống trước Hoàng Đế hơn 1700 năm. Thần Nông (3320-3080 TCN) trước Hoàng Đế hơn 700 năm.
Một câu hỏi: vì sao Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế cùng là tổ của người Trung Hoa? Phải chăng hai vị trên là tổ từ thời xa thẳm trên thảo nguyên mà người Hoa mang xuống phụng thờ?
Hoàn toàn không! Cũng như ngựa không thể đẻ ra trâu, dân du mục không thể có những vị tổ nông nghiệp! Vậy thì vì sao các vị thần của nghề nông phương Nam trở thành tổ của người Hoa, ở trên vị vua khai sáng là Hoàng Đế?
Câu hỏi như vậy nhiều lần được đặt ra nhưng cũng chưa có lời đáp! Tuy nhiên, nó gợi lên điều là, ảnh hưởng của văn minh nông nghiệp, của phương Nam không chỉ tới văn hóa mà cả tới cội nguồn tổ tiên của người Hoa!
Một điều nữa khiến ta chú ý là, trong Thượng thư, cuốn sử sớm nhất của Hoa tộc, thường nhắc tới những cuộcchinh phạt rợ Tam Miêu của vua Nghiêu, vua Thuấn. Cùng câu hát trong cuốn Kỳ môn độn giáp đại toàn thư: “Tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu -.” (Ngày xưa Hoàng Đế đánh Si Vưu, trận Trác Lộc tới nay còn chưa dứt), những dòng chữ hiếm hoi trong Thượng thư cho biết, các vương triều Hoa Hạ suốt 250 năm luôn phải đối đầu với cuộc chiến dai dẳng của người Việt! Như vậy có sự thực là, tuy thua cuộc, nhưng người Việt không bị biến mất trong lịch sử mà vẫn là thế lực bất khuất, luôn đánh trả kẻ xâm lăng. Điều này chứng tỏ người Việt bản địa có vai trò không nhỏ trên đất Trung Nguyên.
Trong những kinh sách do Khổng Tử soạn, ông đều nói: “Ta thuật lại chứ không sáng tác.” Thuật lại có nghĩa là ghi chép lại, biên tập lại những điều có từ trước. Vậy, câu hỏi được đặt ra là, ai là tác giả của Tam Phần, Ngũ Điển? Nếu nói những sách này xuất hiện từ thời Nghiêu, Thuấn thì câu hỏi tiếp sẽ là: Vì sao chỉ hơn 200 năm mà từ những tộc du mục mông muội, người Hoa Hạ tiến tới nền văn hiến rực rỡ như vậy? Chưa có lời đáp!
Trong kinh Thi, ta thấy Khổng Tử đề cao hai chương Chu Nam và Thiệu Nam, nói lên sự thuần hậu trong phong tục tập quán của phương Nam. Sách Trung dung ghi lời Khổng Tử: “Khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo, Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi” (cái mạnh của phương Nam là lấy lòng nhân để giáo hóa, không trả thù kẻ vô đạo. Đó là nơi người quân tử ở.)
Rõ ràng là ở đây, Khổng Tử chỉ ra phương Nam văn minh hơn phương Bắc. Điều này gián tiếp nói rằng, văn hóa Trung Hoa là từ phương Nam lên. Cũng có nghĩa là cội nguồn văn hóa ở phương Nam.
Về ngôn ngữ, ta thấy, ngôn ngữ Trung Hoa quá phồn tạp, nhưng từ thời Chu, vương triều đã quy định dùng Nhã ngữ là ngôn ngữ thanh nhã của phương Nam. Tới thời Tần, khi thống nhất văn tự, đã lấy nhã ngữ làm quốc ngữ. Cách đọc quốc ngữ là quảng vận được duy trì cho tới thời Đường, Tống. Như vậy, tiếng nói và chữ viết của Trung Hoa chính là chữ viết và tiếng nói của người Việt phương Nam!
Bất cứ ai đi suốt Trung Hoa từ Nam lên hay Bắc xuống đều nhận ra phương Nam trù phú, văn minh, còn phía Bắc nghèo và lạc hậu của vùng chưa phát triển.
Mặc dù hàng nghìn năm, Trung Quốc cho rằng mình ở giữa thiên hạ, đem ánh sáng văn minh khai hóa các tộc “di, rợ” xung quanh nhưng từ những thực tế trên, buộc người ta cảm nhận tới một sự thật khác: văn minh nảy sinh ở phương Nam, thuộc về những người được coi là “di, rợ”.
II. Vai trò của học giả phương Tây
Cuối thế kỷ XIX, từ phát hiện nền văn minh Mesopotamia rực rỡ, nơi người tiền sử đã sáng tạo nghề nông và đồ gốm, đồ đồng từ rất sớm, giới khoa học phương Tây cho rằng, văn minh nhân loại được nảy nở từ những ngọn đồi vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu rồi truyền tới Hy Lạp, La Mã. Một nhánh đi tới Trung Á, sang Viễn Đông.
Từ quan niệm này, khi khảo cứu nguồn gốc người Khmer ở Đông Dương, học giả Pháp E. Aymonier cho rằng:
“Tổ tiên những tộc người ngôn ngữ Môn-Khmer thuộc về chủng tộc Negritoid, bắt nguồn từ những sườn núi phía Nam Tây Tạng rồi chia đôi ra và di chuyển về phương Nam theo hai hướng - hướng Tây Nam sinh ra người Munda ở Ấn Độ, hướng Đông Nam sinh ra tộc người Môn-Khmer ở Đông Dương. (Aymonier. E. - Le Cambodge, T.3, Paris 1904. Dẫn theo Nhân chủng học ĐNA tr. 118)”
Công trình khảo cứu của Andrews đã đưa tới kết luận là “20.000 năm trước T.L, xứ Mông Cổ đã đông dân cư, khí cụ của họ thuộc thời “azilien”, thời trung thạch khí ở châu Âu, rồi khi miền Nam Mông Cổ càng ngày càng khô nóng, thành sa mạc Gobi thì giống người đó tràn sang Tây Bá Lợi Á và Trung Hoa.” (Will Durant: Lịch sử văn minh Trung Hoa)
Từ phát hiện văn hóa Ngưỡng Thiều huyện Thằng Trì tỉnh Hà Nam, Trung Quốc với nông nghiệp trồng kê, đồ gốm men cùng xương cốt người cổ đồng chủng với người Trung Hoa hiện đại và văn hóa Long Sơn ở tỉnh Sơn Đông, phần nhiều học giả cho rằng, văn minh Hán đã từ Ngưỡng Thiều truyền tới Long Sơn rồi dịch chuyển về phía Nam.
Lý thuyết này tạo “cơ sở khoa học” cho quan niệm “văn minh truyền từ Tây sang Đông và từ Tây Bắc xuống Đông Nam.” Vô hình trung học giả phương Tây ủng hộ thuyết “văn minh Trung Hoa khai hóa các dân tộc phương Nam.”
“Năm 1932, nhà nhân chủng học người áo Robert Heine-Geldern công bố đề cương truyền thống thời tiền sử Đông Nam Á. Ông đã đề xướng một loạt những “đợt sóng văn hóa” với ý nghĩa, những người di cư đã đem tới Đông Nam Á những chủng tộc chính ngày nay đã được tìm thấy ở khu vực. Ông cho rằng đợt di dân quan trọng nhất là của những người đã chế ra một dụng cụ đá hình chữ nhật được gọi là cái rìu, từ Bắc Trung Hoa xuống Đông Nam Á và lan xuống Malay Peninsula, Sumatra, Java, thậm chí tới Borneo, Philppine, Đài Loan và Nhật Bản. Sau đó ông Robert Heine-Geldern đã giải thích sự du nhập đồ đồng vào Đông Nam Á như sau: Nguồn gốc nguyên thủy của thời đại Đồ Đồng ở Đông Nam Á được di dân du nhập từ Đông Âu khoảng 1000 năm TCN. Ông cho rằng những di dân đó di chuyển vào phía Đông và phía Nam Trung Hoa vào thời Tây Chu (khoảng  từ năm 1122 – 771 TCN). Những di dân này đã đem theo không chỉ kiến thức về chế tạo đồng, mà còn đem tới hình thức nghệ thuật mới. Vì vậy, họ đã thiết kế đồ đồng với các đường thẳng, đường xoắn ốc, tam giác cùng hình người và thú vật. Nghệ thuật này được ứng dụng trong toàn vùng Đông Nam Á, được hai ông Robert Heine-Geldern và Bernhard Karlgren, một học giả Thụy Điển, gọi là văn hóa Đông Sơn theo tên một địa điểm ở miền Bắc Việt Nam, phía Nam Hà Nội, nơi mà các trống đồng lớn cùng các cổ vật khác được tìm thấy. Hai ông đều cho rằng người dân Đông Sơn đã đem đồng và nghệ thuật chạm trổ kỷ hà vào Đông Nam Á.
Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông Nam Á là một vùng nước đọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay thậm chí Đông Âu, đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một quan điểm gần như “chính thống” của đại đa số giới học giả Tây phương là văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á chẳng có phát kiến gì đáng kể.
Một trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges Coedès, Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950, bỏ ra nhiều năm để phiên dịch những văn bia tiếng Phạn mà ông tìm thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam. Coedès và nhiều đồng nghiệp của ông thời đó tin rằng văn minh nhân loại khởi nguồn từ vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) đến Ai Cập, rồi lan sang Hy Lạp và La Mã. Niên đại của các tượng đài tại Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy đây là hai nền văn minh phát triển sau nền văn minh Lưỡng Hà. Coedès từ đó suy luận rằng Đông Nam Á chỉ là hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc mà thôi. Năm 1966, Coedès còn viết: Người Đông Nam Á “có vẻ thiếu thiên tư sáng tạo và năng khiếu tiến bộ”. Mãi đến năm 1971, nhà sử học người Anh Grahame Clark vẫn đánh giá thấp văn minh Đông Nam Á. Ông cho rằng người tiền sử Đông Nam Á chưa bao giờ thoát khỏi thời đại Đồ Đá (Stone Age) để tiến lên thời đại Đồ Đồng như các nền văn minh khác. Clark viết rằng không như văn minh Lưỡng Hà hay Trung Hoa, “người Đông Nam Á vẫn tiếp tục sử dụng công cụ bằng đá cho đến thời đại Kitô giáo”. Từ năm 1979, trước một số di vật được sản xuất bằng đồng và một số đồ gốm thuộc thời tiền sử được tìm thấy ở Đông Nam Á, Clark vẫn bác bỏ sự hiện hữu của một nền văn minh Đông Nam Á: ông cho rằng đó chỉ là những phát hiện “khác thường” và tin rằng đó là những công cụ do các nền văn minh khác đem lại cho Việt Nam mà thôi.” (G.S. Nguyễn Văn Tuấn- Lời giới thiệu cuốn Địa đàng ở phương Đông).
Vào những năm 20 thế kỷ trước, học giả người Pháp, L. Aurousseau khai thác thư tịch Trung Hoa, cho rằng:
“Người Việt Nam trước ở Trung Hoa rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam. Nước Sở thuộc dòng Bách Việt, lãnh thổ bao gồm 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN. Đến thế kỷ thứ IX trước CN, một ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông Dương Tử, định cư ở Triết Giang, thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào thế kỷ thứ VI trước CN. Năm 333 trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy về phương Nam theo bốn nhóm: Nhóm Đông Âu hay là Việt Đông ở miền Ôn Châu (Triết Giang). Mân Việt ở Phúc Kiến, Nam Việt ở Quảng Đông, Quảng Tây, Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam. Các nhóm kể trên bị Hán hóa, chỉ còn lại nhóm Lạc Việt là tồn tại…” “Vậy thời ta có đủ chứng cớ mà nói quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đã ở miền tỉnh Triết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy”.                    
Ở bước chuyển mình từ Nho học truyền thống sang học hỏi văn hóa nhân loại, vào thập niên 30-40 thế kỷ trước, lớp trí thức tiên phong người Việt đã hào hứng tiếp thu những “phát kiến” tân kỳ đó của học giả phương Tây.
Trong Việt Nam sử lược ấn hành đầu thập niên 40, sử gia Trần Trọng Kim viết:
 “Theo ý kiến của nhà kê cứu nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông Nam, lập ra nước ta bây giờ, còn người Thái thì theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La và các nước Lào, Mên.”
Học giả người Pháp, viện sĩ Maspero (1912) cho ngôn ngữ Thái giữ vai trò chủ đạo trong thời tiền sử Đông Á nên khi làm những nghiên cứu so sánh ngôn ngữ học đã đem chữ Hán được điển chế hàng ngàn năm đối chiếu với chữ Việt Latinh hóa mới chừng hơn trăm tuổi và thống kê được, trong tiếng Việt có đến 70% vay mượn từ tiếng Hán!
Các học giả Việt Nam như Ngô Tất Tố, Trần Trọng Kim nhắc lại ý tưởng này trong sách của mình và đem dạy nhiều thế hệ học trò Việt. Kết quả là cho tới tận hôm nay điều sai lầm như vậy vẫn ám ảnh trong đầu óc của nhiều người.
Có điều khó hiểu là, không biết vì sao, trong khi phải học người Việt từ nghề nông tới tiếng nói, chữ viết thì người Hoa Hạ lại tự cho mình là văn minh, cao quý, là trung tâm ban phát văn minh cho các dân “di, rợ” xung quanh?! Quan niệm đó theo thời gian càng tăng lên, nhất là sau thời Tần, Hán. Đến thời cận đại, những “khám phá khoa học” của học giả phương Tây vô hình trung tiếp tay chủ nghĩa bá quyền của người Trung Hoa đè nén tinh thần các dân tộc Đông Nam Á.
Công bằng mà nói, không phải tất cả học giả phương Tây đều mang đầu óc kỳ thị như vậy.
Không ít nhà khoa học trung thực đã dành nhiều tâm lực đi tìm cội nguồn văn hóa phương Đông, đem lại công bằng và danh dự cho những dân tộc từng bị gạt ra bên lề của lịch sử.
Từ giữa thế kỷ XIX, trong cuốn Về nguồn gốc các loài, Darwin công bố: “Tổ tiên mọi giống gà trên thế giới hiện nay là con cháu của con gà rừng duy nhất được thuần hóa tại Đông Nam Á, 15000 năm trước.”
Đây là phát hiện lớn và vô cùng quan trọng vì trong chiều sâu khoa học, thuần hóa vật nuôi chỉ xảy ra khi con người sống định cư, có nghề trồng ngũ cốc. Điều này cho thấy, 15000 năm trước, tại Đông Nam Á, nông nghiệp trồng ngũ cốc đã xuất hiện. Tiếc rằng suốt một trăm năm, giới khoa học đã không đếm xỉa tới đề xuất thiên tài của tác giả thuyết Tiến hóa.
Một trăm năm sau, năm 1952, nhà địa chất học người Mỹ Carl Sauer đi một bước xa hơn. Ông nêu giả thuyết là cây cỏ đầu tiên trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á. Ông phỏng đoán rằng cây cỏ thuần dưỡng, được những người sống trong nền văn hóa trước thời kỳ Đông Sơn mang tới, họ là chủ nhân nền văn hóa nguyên thủy được biết đến như là văn hóa Hòa Bình. Tuy nhiên, cũng như Darwin một trăm năm trước, ý kiến của ông bị bỏ qua. Các nhà khảo cổ thời đó đã không chấp nhận lý thuyết này.
Tháng Ba năm 1971, Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, Giáo sư nhân học, Đại học Hawaii, sau nhiều năm khai quật những di chỉ khảo cổ ở Thái Lan, công bố chuyên luận Ánh sáng mới trên vùng quên lãng (New light on Forgotten Past) với những ý tưởng như sau:
1. Tôi đồng ý với Sauer là dân cư thuộc văn hóa Hòa Bình là những người đầu tiên trên thế giới đã thuần hóa cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Đông Nam Á. Việc này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nếu sự thuần hóa bắt đầu sớm nhất khoảng 15.000 năm TCN.
2. Tôi cho rằng những dụng cụ bằng đá được tìm thấy ở miền Bắc Australia có tuổi Carbon 14 khoảng 20.000 năm TCN có nguồn gốc từ văn hóa Hòa Bình.
Trong khi niên đại sớm nhất của đồ gốm hiện được biết ở Nhật khoảng 10.000 năm TCN, tôi kỳ vọng rằng khi nhiều địa điểm Hòa Bình với gốm văn thừng được xác định niên đại, chúng ta sẽ nhận ra rằng gốm chính do những người này làm ra chắc chắn trước 10.000 năm TCN, và có thể họ đã phát minh ra cách làm đồ gốm.
3. Quan niệm truyền thống về thời tiền sử Đông Nam Á cho rằng các di dân từ miền Bắc đem những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến vùng Đông Nam Á. Thay vào đó, tôi đề nghị văn hóa Đá mới sớm nhất (cũng có nghĩa là cả thời Đá muộn) ở Bắc Trung Hoa như văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao) thoát thai từ một nền văn hóa phụ của văn hóa Hòa Bình từ phía bắc Đông Nam Á di chuyển lên vào khoảng thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước Công nguyên.
4. Tôi đề nghị nền văn hóa muộn hơn, được gọi là văn hóa Long Sơn (Lungshan) vốn được cho là xuất phát từ Ngưỡng Thiều ở phía bắc Trung Hoa sau đó lan xuống Đông và Đông Nam, thực ra đã được phát triển ở Nam Trung Hoa và di chuyển lên hướng Bắc. Cả hai nền văn hóa này đều thoát thai từ văn hóa Hòa Bình.
5. Thuyền làm bằng thân cây có thể được sử dụng trên sông ngòi Đông Nam Á trước thiên niên kỷ thứ năm. Có thể không lâu trước 4.000 năm TCN, xà nách (cái xiểm - outrigger) được phát minh ở Đông Nam Á, tạo sự ổn định cần thiết để đi biển. Tôi tin rằng phong trào đi khỏi khu vực bằng thuyền bắt đầu khoảng 4000 năm TCN, dẫn đến các cuộc du hành ngẫu nhiên từ Đông Nam Á tới Đài Loan và Nhật Bản, đem tới Nhật kỹ thuật trồng khoai môn và các hoa mầu khác.
6. Ở thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên, những tay chèo thuyền Đông Nam Á, đã đi tới những đảo ở Indonesia và Philippine. Họ đem cả một nghệ thuật kỷ hà gồm những đường xoắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật trong những kiểu mẫu được dùng chạm trổ ở đồ gốm, đồ gỗ, hình xăm, quần áo bằng vỏ cây, và sau đó là vải dệt. Những mỹ thuật kỷ hà này được tìm thấy trên các đồ đồng Đông Sơn và đã được cho là từ Đông Âu tới.
7. Người Đông Nam Á cũng đi về phía Tây tới Madagascar khoảng 2000 năm về trước, mang cống hiến quan trọng của họ cho sự thuần hóa cây trồng ở Đông Phi. Cũng khoảng thời gian này, sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Địa Trung Hải bắt đầu, có thể bằng đường biển, nhờ vào phát triển giao thương. Một vài đồ đồng khác thường được tìm thấy ở Đông Sơn có thể có nguồn gốc Đông Địa Trung Hải.”
Năm 1998, Giáo sư Stephen Oppenheimer Đại học Oxford nước Anh, công bố công trình quan trọng Địa đàng ở phương Đông - về các lục địa Đông Nam Á bị chìm.
Với khối lượng lớn tư liệu di truyền học, khảo cổ học, dân tộc và văn hóa học, tác giả chứng minh một cách thuyết phục những đề xuất của Sauer, Solheim và khẳng định rằng, Đông Nam Á là cái nôi phát sinh văn hóa nhân loại.
Năm 2004, với tư cách người dẫn đầu ngành di truyền nhân học Anh, ông công bố con đường rời châu Phi của nhân loại, trong đó chỉ ra rằng 70000 năm trước, người tiền sử đã theo ven biển Nam Á tới Việt Nam, sau đó từ Việt Nam đi lên Trung Hoa và chiếm lĩnh châu Mỹ.
Năm 1998, Giáo sư Y. Chu, một người gốc Hoa sống tại Mỹ cùng 13 đồng nghiệp trong Dự án Đa dạng di truyền người Trung Quốc, sau nhiều năm nghiên cứu với khoảng tài trợ 1.000.000 USD của Quỹ phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc, công bố rằng: khoảng 60-70000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi đã theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam rồi khoảng 40000 năm trước, từ Việt Nam đi lên Trung Hoa để khoảng 30000 năm trước, sang châu Mỹ!
Như vậy là, bên cạnh những người mang đầu óc thực dân, xuyên tạc, vùi dập văn hóa Đông Nam Á, có những học giả công tâm, trung thực, hết mình vì chân lý khoa học, bỏ nhiều tâm lực khám phá lịch sử chân thực của các dân tộc vùng đất thiêng này.
III. Giải tỏa ảnh hưởng những sai lầm cũ.
Điều không bình thường, đáng suy ngẫm là, trong khi có những nhà khoa học phương Tây dành nhiều công sức phát hiện lại thời tiền sử Đông Nam Á thì hầu hết học giả người Việt hoặc thờ ơ, không biết đến những phát kiến này hoặc nghi ngờ phản bác.
Giáo sư Lê Thành Khôi là một ví dụ. Là người không mệt mỏi truyền bá lịch sử, văn hóa Việt với thế giới nhưng tiếc rằng, trong bài bình về cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Giáo sư Trần Ngọc Thêm, ông vẫn giữ quan điểm cũ kỹ “Lưỡng Hà là khởi thủy của văn minh nhân loại” đồng thời phản bác những phát hiện của Solheim.
Hơn 40 năm trước, khi Giáo sư Kim Định đề xuất thuyết Việt Nho, cho rằng Nguyên Nho hay Việt Nho của tộc Việt cổ, là cội nguồn của văn hóa Trung Hoa, do không đủ bằng chứng, ông chịu sự bài bác nặng nề. Nhưng nay, nhờ những khám phá mới về cội nguồn tộc Việt, thuyết của Kim Định được khoa học chứng minh. Tiếc rằng, lời chửi rủa ông vẫn chưa ngớt mà cay độc nhất, dai dẳng nhất được phát ra từ nhà sử học danh tiếng Tạ Chí Đại Trường.
Năm 2005, nhà sử học hàng đầu Việt Nam Trần Quốc Vượng, khi trả lời đài BBC tiếng Việt vẫn “ủng hộ thuyết đa nguồn gốc của loài người” đồng thời khẳng định người Việt bị Trung Hoa đồng hóa từ thời Bắc thuộc!
Ít năm trước, khi một tác giả Hán Nôm thầm thì nói: “Những địa danh có chữ Kẻ trên vùng Đất Tổ có thể là từ thuần Việt,” liền bị một học giả chữ nghĩa cùng mình là An Chi phản pháo: “Kẻ là Cái, Giới, Giái… là 100% Trung Quốc, tất cả đều "made in China!” Nghe ngữ điệu đoạn văn, ta rợn người vì sự đắc thắng sảng khoái của tác giả!
Không chỉ thế, còn nhiều nhiều nữa những người mặc dù đã đọc “Phát hiện lại Việt nhân ca”“Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn” cùng hàng trăm chứng cứ khẳng định “Tiếng Việt, chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán” thì không ít người vẫn cho rằng “cả những tiếng tưởng chừng Việt nhất như Bút, Viết… cũng là Hán!” Rồi “Từ chuột, trâu, hổ, mèo quê mùa Việt Nam, khi lên phía Bắc, được trí tuệ Hán siêu việt thăng hoa, nâng cấp trở thành Tý, Sửu, Dần, Mão… quay trở lại dạy dỗ người Việt!”
Không thể nào hiểu được, là những người yêu nước, có tinh thần dân tộc nhưng vì sao những vị này vẫn cố bám giữ những tri thức đã bị khoa học phủ nhận?!
Sau hàng nghìn năm mất cả văn hóa cùng lịch sử, tưởng rằng, ngày nay, khi tìm lại lịch sử, văn hóa đích thực, mọi người sẽ hồ hởi tiếp nhận, biến thành công cụ giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ văn hóa… Nhưng sao cuộc trở mình lại khó vậy?
Thanh minh năm Tân Mão
(Nguồn: Văn hóa Nghệ An)