Thứ Năm, 14 tháng 2, 2013

Phù Nam – Quốc gia cổ đại đầu tiên ở Đông Nam Á.


Phù Nam – Quốc gia cổ đại đầu tiên ở Đông Nam Á. 
Hoàng Ngọc Chính - Bảo tàng lịch sử quốc gia Hà Nội.
Kỳ 1: Sự hình thành và phát triển cực thịnh
Vương quốc Phù Nam được xác định là một quốc gia cổ đại - Nhà nước đầu tiên có nền chính trị- kinh tế hùng mạnh ở Đông Nam Á trong 6 thế kỷ đầu Công nguyên.

Quốc gia này để lại cho chúng ta nền Văn hóa Óc Eo. Đây là một nền văn hóa, văn minh cổ đại xuất hiện sớm nhất vùng Đông Nam Á. Phù Nam đã có một thời kỳ hình thành, phát triển vô cùng mạnh mẽ, nhưng về sau gặp biến cố nên đã bị suy vong và biến mất. Tất cả đền đài, thành quách đều bị chôn vùi trong lòng đất suốt hàng nghìn năm. Về sau người ta chỉ biết đến Vương quốc Phù Nam qua sự phát hiện ra nền văn hóa Óc Eo từ cuộc khai quật đầu tiên của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret tại gò Óc Eo (xã Vọng Khê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) vào năm 1944. Với những gì Louis Malleret phát hiện, cùng với những kết quả khảo cổ của các đồng nghiệp Việt Nam sau này đã vẽ nên một cách sống động về nền văn hóa cổ từng tồn tại và phát triển rực rỡ ở đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công Nguyên.
Bản đồ vùng Óc Eo năm 1944 của học giả người Pháp Louis Malleret
Về nguồn gốc ra đời của của Nhà nước Phù Nam và vương triều Hindu giáo đầu tiên, sách “Nam tề thư” của Trung Quốc có ghi: “Nước Phù Nam thuộc hướng Nam, phía Tây là biển lớn và phía Nam là quận Nhật Nam (Trung Quốc) có diện tích rộng hơn 3000 dặm. Nước ấy có một con sông lớn chảy theo hướng Tây ra biển. Trước đây nước này do một vị Nữ vương tên là Liễu Diệp (Lưu Yi) cai trị. Tục nước này vốn khỏa thân, vẽ mình, xõa tóc, không biết may quần áo, phụ nữ làm vua. Phía Nam nước ấy có một nước Khích, quốc vương là Hỗn Điền (Kaundinia). Hỗn Điền là người rất chăm thờ thần linh. Theo chiêm bao và theo lời chỉ dẫn của các vị thần, Hỗn Điền cưỡi thuyền ra biển đi theo hướng về đất Phù Nam. Thấy thuyền lạ xâm phạm vào lãnh thổ, Liễu Diệp mang quân ra tấn công, một cuộc chạm trán nổ ra và Liễu Diệp xin hàng. Hỗn Điền đã cưới Liễu Diệp làm vợ vì đây là mối “nhân duyên kỳ ngộ” đã được thần linh mách bảo từ trước. Từ đó Hỗn Điền cai trị Phù Nam, thay đổi một số tập tục ở nước này, lệnh cho phụ nữ phải dùng vải quấn hoặc may quần áo mặc, bỏ tục khỏa thân. Hỗn Điền cùng Liễu Diệp sinh được 7 người con nên chia nước làm 7 ấp (tương đương với thành- phủ), giao cho các con cai trị, mỗi người giữ 1 ấp gọi là “Tiểu vương”, còn một phần lớn diện tích trong hoàng cung do nhà vua hay còn gọi là “Đại vương” quản lý và quản lý cả các “Tiểu vương”. Mỗi thành của các “Tiểu vương” quản lý một khu vực dân cư đông đúc từ 2-5 km2 và hàng trăm bàu nước (mỗi bàu nước dùng cho hàng chục hộ dân sinh hoạt”.
Vương quốc Phù Nam đặt Thủ đô tại Lò Gò (cách thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang ngày nay khoảng 30 km về phía Tây Nam). Quân đội có các lực lượng thủy- tượng- bộ binh làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội và bờ cõi biên cương. Vì thế vào lúc cực thịnh, vương quốc Phù Nam đã kiểm soát về phía Đông đến tận cùng phía Nam Trung Bộ thuộc Việt Nam ngày nay, về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam của Thái Lan. Dân chúng Phù Nam, cũng như nhà vua đều tôn thờ tín ngưỡng tâm linh, nhất là tôn kính thờ phụng các vị thần của đạo Bà La Môn và Phật giáo. Do đó giới tăng lữ, đạo sĩ được trọng dụng và nắm thần quyền - vương quyền. Kế đến là các nhà sư, hòa thượng nắm độc quyền bang giao. Giới đại thương gia, đại điền chủ là nền tảng xã hội, chi phối nền kinh tế- nông nghiệp lẫn thương mại. Pháp luật của Phù Nam là “ luật pháp Thiên Chúc” do nhà vua thực thi theo “ thần linh chiêm nghiệm”- “ thần linh mách bảo”. Vua cho xây dựng đền đài khắp nơi để thờ cúng thần linh. Phần đông dân chúng đều tôn thờ Phật pháp và tuân theo đạo sĩ Bà La Môn. Xã hội Phù Nam cũng có kết cấu tổ chức như các chế độ xã hội hiện đại hiện nay. Bộ máy nắm quyền quản lý xã hội với người đứng đầu là vua, kế đến là các hoàng thân, các lãnh chúa và giới tăng lữ. Ở thời đại của quốc gia cổ đầu tiên này cũng có đội ngũ những người làm khoa học, người dạy học nhưng là các thầy tu dạy chữ Phạn. Cũng có người đi lính tham gia vào quân đội; cũng có người hoạt động nghệ thuật - văn nghệ như đào kép, vũ công ca múa nhạc phục vụ cho giới quan lại cung đình. Ở thời đại Phù Nam, nghề luyện kim, đúc khuôn rất phát triển với số lượng lớn phường thợ kim hoàn, thợ rèn. Các ngành nghề khác như nghề dệt, nghề mộc, xây dựng, khai thác lâm hải sản cũng phát triển và có cả đội ngũ chuyên môn. Vương quốc Phù Nam còn có một nền nông nghiệp khá phát triển với nghề trồng lúa nước, trồng mía đường; một bộ phận nông dân trồng vườn, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản. Song giàu có nhất là tầng lớp thương nhân. Một tầng lớp thương gia buôn bán tại chỗ và thương nhân vãng lai từ một số vùng đất trong khu vực, thậm chí từ Trung Hoa, Địa Trung Hải, Vịnh Ba Tư gồm nhiều sắc tộc và tôn giáo khác nhau thường xuyên đến trao đổi mua bán với Phù Nam.
Hệ thống kênh rạch cổ vùng Óc Eo (1944)
Người Phù Nam có cuộc sống rất thực tế. Sống trên vùng ngập nước, họ đã tận dụng địa hình để đào những con kênh thoát nước, dẫn nước và để giao thông đi lại. Con kênh Kiên Giang- Minh Hải (nay là Bạc Liêu) chạy qua các khu di tích Núi Sam, Bảy Núi, Óc Eo (An Giang) hay Giếng Đá từ di chỉ Tráp Đá (An Giang) chạy dài hơn 30km đến khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang). Kênh số Một chạy từ Đông sang Tây của huyện Tri Tôn (An Giang) với khoảng 16km. Ngay ở khu di tích Óc Eo - Núi Sập - Định Mỹ (An Giang) có những con kênh cổ tạo thành một mạng lưới chằng chịt tỏa như nan quạt nối liền các di chỉ Óc Eo. Theo các nhà khảo cổ học, quan sát thực tế cho thấy tại Đá Nổi (nay thuộc Cần Thơ) là điểm hội tụ của 11 đoạn kênh đào cổ. Cư dân cổ của Vương quốc Phù Nam ở vùng châu thổ sông Cửu Long không trị thủy bằng đê mà bằng cách đào kênh, dẫn nước vào ruộng, khai thác lợi thế từ nguồn nước, sông rạch. Một số người còn sống bằng nghề cá. Người dân sống trên nhà sàn vì đó vốn sình lầy, là vùng đồng bằng thấp ngập nước. Các đền đài, mộ táng thì được xây dựng trên các gò đất đắp hoặc đồi núi cao. Có đền đài dài đến 25m rộng 16m, kè móng đá cao 2m. Điều này cho thấy Phù Nam là một xã hội thượng tôn tín ngưỡng tôn giáo hết sức mạnh mẽ.
Trong quá trình phát triển, Vương quốc Phù Nam đã chú trọng đến việc hình thành các thương cảng phục vụ cho việc giao thương với các xứ khác. Bởi vậy trong giai đoạn phát triển cực thịnh của mình, Phù Nam không chỉ có một thương cảng Óc Eo (An Giang) và một tiền cảng Nền Chùa (Kiên Giang), mà còn có các thương điếm từ Óc Eo qua Đá Nổi đến Phú Long (Sa Đéc), Gò Thành (Vĩnh Long) rồi các trung tâm ở vùng Mỹ Tho - Gò Công trước khi đến Cần Giờ đổ ra Biển Đông. Vùng vịnh cổ này chạy theo hướng Đông - Tây từ mũi Vũng Tàu đến cửa sông cổ ở Thoại Giang, Thoại Sơn, An Giang “phải đi qua hàng trăm dặm dọc theo con sông trong vùng rừng sác (người Nam Bộ gọi cây mắm là cây sác) để đến kinh đô Phù Nam. Sự vận hành hai con đường mậu dịch lớn nhất hành tinh: “Con đường tơ lụa” và “Con đường hương liệu”, trong vài thế kỷ đầu và trước CN đã tạo điều kiện hình thành, phát triển một loạt các quốc gia Trung Á và Đông Nam Á. Phù Nam là một “quốc gia - đô thị” sớm nhất ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, cũng là quốc gia thế lực nhất vùng Đông Nam Á kiểm soát con đường hương liệu. Khi đế quốc La Mã mở rộng giao thương với người Ấn qua biển Ả Rập thì con đường thương thuyền Ấn Độ - Trung Hoa được nối dài từ Đông sang Tây Ấn Độ đến các thương cảng trong vịnh Ba Tư hay trên bờ Biển Đỏ. Sự nối dài này làm cho giao thương đường biển trở nên nhộn nhịp, các quốc gia trở nên năng động và nhanh chóng giàu có; chủng loại và số lượng hàng hóa lưu thông ngày một lớn. Trong số hàng hóa như tơ lụa, kim loại, đồ gốm sứ, trang sức, đá quí, ngọc trai, gỗ… thì các loại gia vị và hương liệu đặc sản vùng Đông Nam Á trở thành đối tượng giao thương toàn cầu. Với sức mạnh kinh tế và quân sự của mình, Phù Namđã chi phối, kiểm soát “con đường hương liệu” trong khu vực. Việc buôn bán hương liệu bắt đầu bằng khai thác các loại trầm hương, quế, đậu khấu, tiêu sọ. Các chuyến tàu của Phù Nam từ Óc Eo sẽ ghé qua các cảng quế ở Hội An, Hải Phòng, đợi đến mùa gió Đông Bắc đến các quần đảo gia vị trong biển Celebes, Moluccas và Bandas (thuộc In-đô-nê-xia ngày nay) rồi quay trở lại đảo Trường Sa. Tại đây các sản vật, nhất là hương liệu và gia vị được đưa lên tàu hàng xuất khẩu đến Trung Hoa, Nhật Bản hay qua Ấn Độ đến các kho chứa trên bờ biển Đỏ hoặc trong vịnh Ba Tư. Tại đó hương liệu Phù Nam và hàng hóa theo đường bộ La Mã tiếp tục đến các nước châu Âu. Dựa vào sức mạnh thương mại trên biển, Vương quốc Phù Nam lấn sang và chi phối hệ thống tài chính trong khu vực, trong đó có hệ thống thanh toán tiền tệ. Tiền của Phù Nam được sử dụng từ Miama, Philippin, các đảo vùng Đông Nam Á…
Hình ảnh cuộc khai quật năm 1944 của Louis Malleret
Nếu ai qua các di chỉ Óc Eo ngày nay, chắc hẳn đều đặt câu hỏi nghi vấn, hiện tại nơi đây là một vùng đồng bằng cạn, xung quanh là núi và cách xa biển. Vậy vì sao lại có thương cảng Óc Eo? Qua nhiều lần khảo cứu, các nhà khoa học, khảo cổ học trong nước và quốc tế đã nhận định rằng: hàng nghìn năm trước đây, thềm lục địa biển Đông Việt Nam, mực nước biển vẫn còn nằm ở đường đẳng sâu hơn hiện tại 100-200m, phần lớn đồng bằng sông Cửu Long chìm trong nước biển. Đến khoảng 2.500 năm trước, nước biển lại dâng lên 2- 2,5m so với hiện tại. Một lần nữa, đồng bằng sông Cửu Long lại bị thu hẹp, nhiều cánh đồng trở thành biển nông ven bờ, những vùng đất thấp trở thành bãi lầy ven biển. Khi đó, Ba Thê (An Giang) là một eo biển với địa hình tránh bão, là nơi neo đậu, dừng chân lý tưởng của thương thuyền các nước. Về sau, do hiện tượng biển lùi, nơi đây chỉ còn lại là những cánh đồng quanh sườn núi. Ngày xưa, nơi này nổi tiếng có nhiều ốc biển. Đến bây giờ, khi đào nền móng xây dựng một số công trình ở quanh vùng Ba Thê người ta vẫn bắt gặp những “mỏ” vỏ ốc khổng lồ trong lòng đất. Có thể tên gọi Óc Eo cũng bắt nguồn từ đó. Do có địa thế thuận lợi như thế nên thương cảng Óc Eo trở thành một điểm đến, điểm dừng chân tránh bão, đợi mùa gió thuận và trao đổi mua bán hết sức lý tưởng và quan trọng của giới thương buôn các nước. Thương cảng Óc Eo chia làm hai khu vực: Khu phía Đông kinh thành giống như khu “chợ nổi”, tại đây các ghe tàu lui tới trao đổi hàng hóa với cư dân tại chỗ, là nơi cung cấp lương thực cho cư dân nội thành gồm vua, đạo sĩ, quan lại, quân lính; khu vực phía Nam là khu neo đậu của các tàu hàng viễn dương để tiếp nhận hàng hóa, sản vật từ các tàu khác trong vùng. Nơi đây cũng là điểm trao đổi hàng hóa giữa các con tàu đến từ nước khác, khiến nơi này trở thành điểm hội tụ các đoàn tàu trên “con đường hương liệu”. Thương cảng Óc Eo trở thành nơi hoạt động nhộn nhịp nhất vùng suốt nhiều thế kỷ đầu Công nguyên.

Kỳ 2: Đem quân chinh phạt và sự sụp đổ của một vương triều
Giàu lên nhanh chóng, cường quốc thương nghiệp - đế quốc Phù Nam có thừa tiền bạc để xây dựng quân đội hùng mạnh nhằm bảo vệ kinh đô, quản lý trật tự xã hội và giữ yên bờ cõi.

Như đã nói ở trên, quân đội Phù Nam có đủ các loại thủy - tượng - bộ binh, trong đó thủy binh được xem là đội quân tinh nhuệ nhất mang tầm chiến lược của quốc gia cổ đại này. Hàng chục chiến thuyền được đầu tư đóng to, trang bị vũ khí đầy đủ. Trong tập ký sự “Chuyện lạ ở phương Nam” của hai sứ thần Trung Hoa là Chu Ứng và Khang Thái đã mô tả những con tàu Phù Nam đủ lớn để chở 600-700 người với 40-50 mái chèo. Tàu dài 20 bộ (48m), nổi cao lên mặt nước khoảng 3 bộ, có 4 cột buồm với các cánh buồm nằm nghiêng rộng khoảng 10 bộ. Với sức mạnh của thủy binh, Vương quốc Phù Nam đã bành trướng thương nghiệp biển và lãnh thổ. Thực tế các chiến thuyền của Phù Nam đã Nam chinh, Tây phạt bắt hơn 10 vương quốc thần phục làm chư hầu, phải cống nạp thuế hàng năm dưới sự bảo hộ của vua Phù Nam. Từ địa bàn chính là đồng bằng sông Cửu Long, sau khi chinh phạt thu phục 10 nước chư hầu, Vương quốc Phù Nam kiểm soát một vùng rộng lớn từ Nha Trang đến thung lũng Mê Nam, gồm một phần đảo Mã Lai và vùng ven vịnh Thái Lan. Từ giữa thế kỷ thứ III - IV, Phù Nam chinh phục quân sự vùng Bắc bán đảo Mã Lai nhằm đảm bảo kiểm soát giao thương trên biển Đông - Ấn Độ Dương, trong số hơn chục nước chư hầu bị Phù Nam thuần phục có cả Chân Lạp (Khơ me cổ hay Campuchia ngày nay). Đây chính là một mầm mống, một thế lực có ảnh hưởng lớn đến sự suy vong của Vương quốc Phù Namsau này.
Khu di tích Óc Eo
Với vai trò nổi bật trở thành trung tâm thương mại sớm nhất trong khu vực Đông Nam Á, Vương quốc Phù Nam mặc sức lấn át các tiểu quốc phụ thuộc vào kinh tế, thậm chí bắt các nước phải thần phục làm chư hầu. Song, cho đến giữa thế kỷ thứ VI, châu thổ này bị thu hẹp bởi đỉnh cao của các đợt hải xâm (biển lấn), đã dẫn đến các cuộc nổi dậy về kinh tế và chính trị của một số nước chư hầu. Và một tiến trình “vương quốc hóa” của các quốc gia trong vùng bắt đầu nhen nhóm. Đầu thế kỷ thứ VII ưu thế thương mại của Phù Nam giảm đi nhanh chóng. Đã có sự dịch chuyển hoạt động thương mại từ trọng tâm là thương cảng Óc Eo ven bờ biển Tây Nam cổ xuống khu vực Malacca và Xumatơra (Inđônêxia). Người ta nhận ra rằng từ khi xuất hiện nhà nước Srivigiaya (một phần đất thuộc Mã lai và đảo Java xưa kia) và nhất là khi nó đóng vai trò đế chế hải thương của cả khu vực thì tên tuổi Phù Nam bị lu mờ và biến mất. Triều đại cuối cùng của Phù Namkhông chăm lo phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu nguồn hàng cũng như củng cố hệ thống cảng biển, trong khi các đế vương, tiểu quốc trên quần đảo In đô nê xia rất thành công trong lĩnh vực này. Sự chuyển hướng buôn bán, giao thương của hai thị trường lớn là Trung Quốc và Ấn Độ cũng góp phần tạo nên biến đổi trên. Theo thư tịch cổ của Trung Quốc thì sự chuyển dịch này đã bắt đầu diễn ra từ nửa sau thế kỷ II và cho đến cuối thế kỷ III. Cùng với vai trò mới nổi của một số tiểu quốc như Java, Xumatơra… đã bắt đầu có những dấu hiệu của sự chuyển hướng địa bàn buôn bán. Thương cảng có tên Koying (Inđônêxia) được nhắc đến như một hải cảng trung chuyển hàng hóa của quốc gia này ở đường bờ biển Đông Nam Xumatơra. Khi đó, Vương quốc Phù Nam vẫn là một quốc gia hùng mạnh với thế lực kinh tế mang tầm khu vực, liên châu lục nên đã phớt lờ và chủ quan với những thế lực kinh tế mới quanh mình. Chính tư tưởng trọng thương và bành trướng lãnh thổ một thời đã đưa Vương quốc Phù Nam trở thành đế chế thương mại biển, một đế quốc hùng mạnh nhất Đông Nam Á, song cũng chính điều này làm nên sự suy yếu về kinh tế và đẩy quốc gia cổ đại này đến con đường diệt vong.
Cổ vật Óc Eo
Cùng với việc mất vị trí về thương cảng, hai nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công nghiệp có dấu hiệu suy sụp thì một yếu tố mang tính quan trọng làm cho vương quốc Phù Nam sụp đổ là các cuộc tranh ngôi trong vương triều của các hoàng thân dẫn đến triều đình Trung ương bị chia rẽ suy yếu, bỏ mặc nền kinh tế đang trên đà tuột dốc. Chính nguyên nhân này cùng với sự lớn mạnh của các nước chư hầu xung quanh cũng là yếu tố tiên quyết làm suy vong nhanh vương quốc này. Trong số các tiểu quốc chư hầu đó, Chân Lạp (hay Khơ me cổ, Cămpuchia ngày nay) đã trở nên vô cùng nguy hiểm vì vốn đã có mầm mống muốn lật đổ triều đình trung ương Phù Nam từ lâu. Chân Lạp ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ V, đầu thế kỷ thứ VI. Chân Lạp nằm ở phía Tây Namnước Lâm Ấp (Chiêm Thành - tiền thân của Chăm Pa). Thủ đô của Chân Lạp có tên là Linkiapơpơ hay Lingaparvata. Chân Lạp được hình thành như một tiểu quốc chư hầu mới nhất của Vương quốc Phù Nam ở cuối thế kỷ thứ V, được vua Phù Nam tin tưởng giao cho một hoàng thân cai trị. Một trong những nhân vật làm nên cuộc biến loạn và làm suy vong Vương quốc Phù Nam là Bhavavarman - vốn là một trong những người thuộc Hoàng tộc của Phù Nam. Vào thế kỷ VI (khoảng năm 540- 550) vua Chân Lạp đem quân đánh chiếm vương quốc Phù Nam. Vua Phù Nam Rudruvarman (vị vua thứ 13 và là vị vua cuối cùng của vương quốc Phù Nam) thất bại chạy về Na Phất Na (một kinh thành cổ nằm tại vùng Óc Eo - Ba Thê) và định đô ở đó một thời gian. Mặc dù đã cử nhiều đoàn sứ thần đi sứ sang Trung Quốc cầu cứu nhưng Phù Nam chỉ nhận được sự thờ ơ của Hoàng đế Trung Hoa và sự quay lưng của các nước có thế lực xung quanh. Cho đến năm 627, dưới triều đại của vua Chân Lạp mới là Isanavarman thì việc thôn tính vương quốc Phù Nam cơ bản hoàn thành. Phù Nam bị sáp nhập hoàn toàn vào Chân Lạp. Do không quen với cuộc sống sông nước và thậm chí không cần cuộc sống sông nước nên người Chân lạp đã tàn phá hải cảng Óc Eo. Sau đó, Chân Lạp chuyển kinh đô lên vùng đất cao Angko Borei (Cămpuchia ngày nay). Vì thế kinh thành và thương cảng Óc Eo rơi vào cảnh đìu hiu, hoang tàn. Không chỉ tàn phá cuộc sống vùng sông nước mà Chân Lạp còn hủy diệt hoàn toàn những vùng cao khác thuộc Vương quốc PhùNam. Chính vì khả năng thích ứng kém của cư dân Khơ Me cổ đã đẩy Vương quốc Phù Nam đến cảnh hủy diệt và biến mất hoàn toàn sau những đợt sóng biển dâng trào. Ngày nay, những đền đài, thành phố, kinh đô xưa của Phù Namchỉ còn là phế tích nằm trong lòng đất ở khắp đồng bằng và những triền núi cao ở miền Tây Nam Bộ.
Đồng tiền vàng La Mã
Vương quốc Phù Nam tồn tại hơn 6 thế kỷ, trải qua liên tục 13 đời vua, thời gian của nó có thể sánh với độ dài của mọi triều đại phong kiến tập quyền ở Đông Nam Á những thế kỷ tiếp sau đó. Trong suốt quá trình tồn tại, với những thành quả xây dựng được về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, Phù Nam đã khẳng định vị trí quan trọng của mình như là đầu mối buôn bán Đông - Tây, giữ vững sự ổn định trong các mối quan hệ quốc tế, xứng đáng là một “Trung tâm liên kết thế giới” như lời nhận xét của một học giả Nhật Bản. “Với những thành tựu, biểu hiện đó, quốc gia Phù Nam đã vượt qua trình độ cơ sở để trở thành một vương quốc phát triển cao nhất Đông Nam Á về mọi mặt trong thiên niên kỷ và nó xứng đáng có một vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới” ( Lương Ninh- Nhà nước Phù Nam. NXB ĐHQG T/p Hồ Chí Minh, tr. 31).



Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ ĐẶC TÍNH KINH TẾ, THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ CẤU TRÚC QUYỀN LỰC CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á THỜI CỔ TRUNG ĐẠI


MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ ĐẶC TÍNH KINH TẾ,
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ CẤU TRÚC QUYỀN LỰC
CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á THỜI CỔ TRUNG ĐẠI

                                                                                           
    PGS.TS NGUYỄN VĂN KIM
Phó hiệu trưởng Trường Đại học KHXH&NV
Đại học Quốc gia Hà Nội


1. Những đặc tính về kinh tế - xã hội 
Nằm ở phía Đông Nam của châu Á, Đông Nam Á là một khu vực Địa - kinh tế, Địa - văn hoá có những đặc tính tự nhiên và lịch sử riêng biệt. Chịu tác động sâu sắc những điều kiện tự nhiên của một khu vực nhiệt đới - gió mùa, hầu hết các quốc gia trong khu vực đều gắn liền với môi trường biển, cận biển. Khí hậu nóng, ẩm, gió mùa và nguồn nư­ớc vô tận của các hệ thống sông lớn như Hồng Hà, Mekong, Chao Phraya, Jambi... cũng như đại dư­ơng đã tạo nên những đặc tính chung nhất cho các quốc gia Đông Nam Á.
Chịu sự chi phối của Hệ sinh thái phổ tạp (General ecosystem), từ sớm cư­ dân Đông Nam Á bản địa đã chứng tỏ một năng lực thích ứng cao với môi trư­ờng tự nhiên và đã thể hiện kỹ năng khai thác các tiềm năng kinh tế tự nhiên, xã hội và văn hóa… để sinh tồn, phát triển[1]. Vào thời tiền sử và sơ sử, cùng với sự tr­ưởng thành về văn hoá, ý thức dân tộc, các dân tộc Đông Nam Á vừa tiếp nhận những giá trị văn hoá truyền thống riêng, chung của toàn thể khu vực vừa thu nhận, cải biến những ảnh h­ưởng văn hoá, giá trị văn minh từ bên ngoài. Con đư­ờng tiếp nhận và truyền tải văn hoá đó luôn gắn liền với quá trình tái tạo, sáng tạo trong một tâm thế rộng mở. Nằm trên tuyến giao lưu và hội tụ giữa các nền văn minh lớn của thế giới phương Đông, cư dân Đông Nam Á đã cùng nhau chia sẻ nhiều giá trị văn hoá chung với các nền văn minh khu vực cũng như thế giới.
Là cộng đồng các quốc gia đa dân tộc, phân bố trên một khu vực địa lý rộng lớn, địa hình luôn bị chia cắt bởi các dãy núi, thung lũng, hệ thống sông và biển cả…với sự đa dạng về văn hoá, nguồn gốc tộc người, cơ sở kinh tế, Đông Nam Á là một phức hợp đa dạng. Nhưng từ trong những phức hợp đa dạng đó, các xã hội Đông Nam Á đã tự tạo cho mình những bản sắc văn hóa riêng. Rõ ràng là, đã đến lúc Đông Nam Á, với những giá trị sáng tạo tính bản địa và nền văn hóa hết sức phong phú, phải đư­ợc nhìn nhận một cách chân thực, đánh giá khách quan hơn. Cũng cần phải nói thêm rằng, là một khu vực có những giá trị văn hoá độc đáo như­ng đồng thời cũng tích chứa nhiều đặc tính phát triển dị biệt nên đã từ lâu, Đông Nam Á đã là chủ đề nghiên cứu thú vị và tranh luận sôi nổi trong giới nghiên cứu khu vực cũng như quốc tế.[2]
Trư­ớc đây, ng­ười ta thư­ờng hiểu tầm quan trọng lịch sử của Đông Nam Á chủ yếu là do vị trí địa lý của nó. Khu vực này đư­ợc coi là “hành lang”, “cầu nối”giữa phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản...) và phư­ơng Tây (Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung Hải). Thậm chí, cho đến gần đây trong khi xem xét những đóng góp về văn hoá và vai trò lịch sử của Đông Nam Á, một số nhà nghiên cứu vẫn duy trì quan niệm “truyền thống”tức chỉ coi Đông Nam Á là khu vực giữ vị trí nh­ư một  “ngã t­ư đư­ờng”của các cuộc tiếp giao văn hoá. Với cách hiểu và luận suy đó, Đông Nam Á chỉ là “Thế giới Ấn hoá”hay “Thế giới Hoa hoá”hoặc đồng thời là sự tích hợp của cả hai dạng thức trên. Quan niệm đó vừa không đầy đủ vừa có phần sai lệch với thực tiễn lịch sử, bản chất xã hội, văn hoá Đông Nam Á.
Nh­ưng bên cạnh đó, từ khoảng những năm 1960-1970, cùng với sự trư­ởng thành của ngành Đông Nam Á học, một số học giả khu vực và quốc tế lại có khuynh h­ướng nhấn mạnh đến những giá trị sáng tạo bản địa được biểu đạt như là những “yếu tố cội nguồn”, “thuần chất Đông Nam Á”. Từ đó cũng có khuynh hướng đi tới việc coi nhẹ, thậm chí phủ nhận những tác động, ảnh hư­ởng của môi trư­ờng văn hoá bên ngoài đặc biệt là của văn minh Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Á và cả văn minh phương Tây đối với sự hình thành, phát triển của các quốc gia khu vực. Dù sự tranh luận gay gắt giữa một bên là những ngư­ời theo thuyết Truyền bá luận (Diffusionism) chủ trương văn hoá Đông Nam Á là do bên ngoài truyền tới và Thuyết bản địa luận (Autochtonism) nhấn mạnh đến những nhân tố nội tại và năng lực sáng tạo của Đông Nam Á thì với những thành tựu nghiên cứu hiện nay, có thể cho rằng, một cái nhìn cực đoan về xã hội Đông Nam Á qua những biểu hiện cũng như bản chất của nó, đều xa lạ và không phù hợp với thực tế lịch sử.
Có thể nói, sự hình thành và phát triển của văn hoá Đông Nam Á đã diễn ra trong những mối quan hệ, giao l­ưu, tư­ơng tác đa chiều. Hành trình lịch sử, văn hóa Đông Nam Á cần phải được nhìn nhận ở ba cấp độ: Các xã hội Đông Nam Á vừa có những giá trị sáng tạo, phát triển những giá trị sáng tạo, vừa tiếp nhận những ảnh hưởng của các nền văn minh lớn đồng thời cũng vừa đóng vai trò truyền nối và chủ động truyền bá văn hoá ra bên ngoài
Dựa trên những thành tựu nghiên cứu mới đặc biệt là những phát hiện mang tính bản địa cùng sự tr­ưởng thành về nhận thức khoa học của giới nghiên cứu khu vực, quốc tế, có thể khẳng định rằng Đông Nam Á, với những giá trị riêng biệt, sáng tạo và truyền thống lịch sử văn hoá lâu dài của nó, phải đư­ợc coi là một trong những Trung tâm văn minh và là một trong những Trung tâm thu - phát văn hoá lớn. Trên ph­ương diện kinh tế, với tiềm năng phong phú và hoạt động kinh tế đa dạng của nó, Đông Nam Á còn là một Trung tâm kinh tế quan trọng của châu Á. Trong nhiều thế kỷ, Đông Nam Á là một khu vực kinh tế năng động, có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế phư­ơng Đông và thế giới chứ không phải là “một khu chợ chuyên buôn bán hàng hoá nư­ớc ngoài”[3]. Do vậy, về mặt xã hội và văn hóa, khi những ảnh h­ưởng của các nền văn minh bên ngoài thâm nhập đến khu vực thì Đông Nam Á hoàn toàn không phải là “những xã hội mông muội”. Đó là những xã hội có tổ chức và ở nhiều vùng đã có một truyền thống văn hóa lâu đời, khá phát triển. Một cách tự nhiên, từ trong chính môi trường sống tự nhiên và cả do sự gần gũi về vị trí địa lý, nhìn chung các nền văn hóa Đông Nam Á đều có nhiều nét tương đồng với văn minh khu vực. Về điều kiện tự nhiên, do có chỉ số duyên hải cao, tự trong bản chất, văn hóa và xã hội Đông Nam Á luôn thể hiện tính năng động, khả năng thích ứng cao với những thách đố văn hóa, chính trị từ bên ngoài. Trong tâm thế đó, “ngay từ thời tiền sử, nhất là từ thời đại kim khí, với tính chất đại dương của địa hình và với sự phát triển khá cao của nghề đi biển, cư dân Đông Nam Á đã truyền bá văn minh của mình về phía Tây tới tận Magadasca, về phía Bắc tới tận Nhật Bản và về phía Đông tới tận vùng đảo Thái Bình D­ương”. [4]
Một số nhà khoa học cũng cho rằng từ thời tiền sử, văn hoá Đông Nam Á đã có những liên hệ với Ấn Độ. Điều có thể thấy đư­ợc là, trong những hiện vật thuỷ tinh, mã não và hạt chuỗi của văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh đã có những hoạ tiết trang trí vẽ màu giống như­ phong cách Ấn Độ[5] . Huyền thoại về nguồn cội, về nghĩa đồng bào và mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, đẻ ra trăm ng­ười con..., theo nhà nghiên cứu Manomohan Ghosh thì rất giống với những ghi chép trong sử thi Mahabharata của Ấn Độ[6]. Mặt khác, ảnh hưởng của văn hóa Đông Nam Á đã không tự hạn chế trong phạm vi đơn vị hành chính hiện nay mà đã mở rộng đến nhiều quốc gia khác ở khu vực Đông Á. Trên cơ sở các cứ liệu khảo cổ học, nhân học GS. Hà Văn Tấn từng cho rằng: “ảnh hưởng của văn hoá Đông Sơn lên phía Bắc, theo l­ưu vực sông Nguyên, sông Tương, đến đất Sở là đã rõ ràng”[7]. Vào thời kỳ đầu của giai đoạn này, văn hoá Đông Nam Á đã đạt đến độ phát triển rực rỡ và chính nhà Đông Ph­ương học nổi tiếng ngư­ời Nga D.V.Deopik đã gọi thế kỷ V trước Công nguyên là “Thế kỷ của phư­ơng Nam”. Trên nhiều phư­ơng diện, văn hóa Đông Nam Á đã có những ảnh h­ưởng rộng lớn, vư­ợt rất xa ra ngoài những quốc gia láng giềng[8].      
Đánh giá về vị thế của văn hoá Đông Nam Á, Trong công trình: “Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học - Văn minh Nhật Bản trong bối cảnh thế giới”, học giả Nhật Bản Tadao Umesao cho rằng: Đông Nam Á là một khu vực văn minh. T­ương tự như­ vậy, với cách nhìn khách quan, trong tác phẩm “Nghiên cứu lịch sử - Một cách thức diễn giải”, nhà nghiên cứu lịch sử văn hoá nổi tiếng thế giới Arnold Toynbee cũng đư­a ra một nhận xét rất đáng chú ý về vị thế của “văn minh Việt Nam”trong mối liên hệ và tương tác với văn minh Trung Hoa và khu vực. Tác giả cho rằng: “Có một mối liên hệ gần gũi hơn nhiều giữa một bên là văn minh Trung Hoa với một bên là các nền văn minh Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Ba nền văn minh này mô phỏng văn minh Trung Hoa nh­ưng đã vay mư­ợn văn minh Trung Hoa theo những con đ­ường riêng biệt khá đặc trư­ng, khiến cho ng­ười ta có quyền coi chúng là những nền văn minh riêng biệt - thuộc vào một phân loại (sous-classe) mà chúng ta có thể gọi là những “Văn minh vệ tinh”(Civilisations satellites), đối lập với những nền văn minh độc lập nh­ư nền văn minh Trung Hoa, ph­ương Tây cũng như­ những nền văn minh cổ Hy Lạp và Syrie có họ hàng với văn minh ph­ương Tây”[9]. Quan điểm của hai học giả tuy có những khác biệt nhất định khi nhìn nhận về vị thế và đặc tính của văn hóa Đông Nam Á nhưng đều tôn vinh những giá trị văn hoá điển hình của Đông Nam Á và coi đó là một khu vực văn minh đồng thời luôn đặt văn minh Đông Nam Á trong nền cảnh và sự t­ương tác với các nền văn minh khác trên thế giới.  
Với quan niệm văn minh Đông Nam Á là một bộ phận hợp thành của văn minh thế giới, có thể thấy hầu hết các nền văn hoá, văn minh lớn trên thế giới đều đ­ược hình thành, phát triển dọc theo l­ưu vực các dòng sông. Chính nguồn nước vô tận của các dòng sông đã sinh tạo và nuôi d­ưỡng nền các nền văn minh lớn thời cổ đại từ văn minh Ai Cập, Lư­ỡng Hà đến Ấn Độ, Trung Hoa... Các nền văn minh đó chắc chắn không thể hình thành sớm và phát triển rực rỡ nếu không đ­ược nguồn n­ước vô tận và phù sa của các dòng sông bồi đắp[10]. Như­ một quy luật tất yếu, các nền văn minh hình thành dọc theo lưu vực các dòng sông đều là các nền Văn minh nông nghiệp, hoạt động kinh tế chủ yếu là kinh tế nông nghiệp.
Cùng chia sẻ một số đặc tính trong quá trình kiến lập văn hóa, văn minh tư­ơng tự nh­ư các nền văn minh cổ đại trên thế giới, hầu hết các nền văn hoá Đông Nam Á đều đư­ợc thành tạo ở lưu vực các dòng sông. Nhiều quốc gia trong khu vực đã tìm thấy năng lực phát triển, sáng tạo của mình từ nguồn nước phong phú và sự bồi tụ của các hệ thống sông như: Mekong, Hồng Hà, Thu Bồn, Chao Phraya, Irrawady hay Jambi… Đây là những quốc gia đ­ược hình thành sớm ở Đông Nam Á, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển chung của toàn thể khu vực. Nguồn n­ước và phù sa của các con sông không chỉ nuôi dư­ỡng các nền kinh tế, các trung tâm văn hoá mà còn quy định nên những đặc tính xã hội, tâm lý, sinh hoạt văn hóa tiêu biểu của các quốc gia trong khu vực. Văn hóa Đông Nam Á luôn giàu đậm chất sông nước.
Mặc dù cho đến nay, vết tích của cây lúa nư­ớc tìm đư­ợc ở Đông Nam Á tư­ơng đối muộn so với hai trung tâm nông nghiệp lớn của châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc (đặc biệt là khu vực Trường Giang) như­ng Đông Nam Á vẫn đư­ợc coi là một trong những Trung tâm nông nghiệp sớm của thế giới. Nền tảng kinh tế của hầu hết các quốc gia trong khu vực là kinh tế nông nghiệp. Dù cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học về sự xuất hiện sớm / muộn của các loài cây lư­ơng thực ở Đông Nam Á là cây cho củ (mà chủ yếu là các giống khoai n­ước) hay lúa cạn (lúa khô dry rice), lúa nư­ớc (water rice) tuy vẫn chư­a thể đạt đến sự đồng thuận tuyệt đối như­ng lúa n­ước vẫn đ­ược coi là cây lư­ơng thực chính, là nền tảng kinh tế để từ đó “triển nở”các trung tâm văn hóa đồng thời hình thành nên những đặc tính tiêu biểu trong truyền thống văn hoá Đông Nam Á.[11]
Từ truyền thống canh tác lúa n­ước giàu đậm chất văn hoá tuân theo sự chuyển vận của lịch trăng, nhiều nhà khoa học đã nâng tầm văn hoá của c­ư dân trồng lúa Đông Nam Á và gọi đó là “Văn minh lúa nư­ớc. Nền văn minh đó chứa đựng trong bản thân nó bản sắc, bản tính tiêu biểu của văn minh khu vực. Bản sắc đó, theo cách hiểu của GS. Trần Quốc Vư­ợng, chính là căn cước để hiểu đồng thời là để định dạng, nhận dạng văn minh Đông Nam Á trong thế giới đa dạng của văn minh, văn hoá thế giới.
Cư dân Đông Nam Á sớm biết và có kỹ năng khai phá các châu thổ nhưng đồng thời cũng sớm biết khai hoang, lấn biển và phát triển ruộng bậc thang, đưa cây lúa nước lên các sườn đồi. Trên thực tế, quá trình khai phá đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc mở rộng diện tích đất canh tác và giải quyết vấn đề lương thực cơ bản ngay tại chính các tiểu vùng cũng như mỗi thôn, bản và các hộ nông dân với tư cách là đơn vị xã hội và tổ chức sản xuất nhỏ nhất. Với ý nghĩa đó, tư duy nông nghiệp, khả năng chinh phục, hòa nhập với thế giới tự nhiên của cư dân Đông Nam Á đã phát triển sớm và đạt trình độ cao. Điều có thể nhận thấy là, ở Đông Nam Á ruộng lúa nước đã xuất hiện ở tất cả mọi địa vực: đồi núi, trung du, đồng bằng và cả vùng ven biển. Đó là các khu vực Địa - kinh tế có nhiều điểm chung nhưng cũng rất riêng giữa các phân vùng hay tiểu vùng Đông Nam Á.  
Tuy nhiên, trên các đảo quốc và nhiều vùng thảo nguyên hay trong các thung lũng của các cánh rừng m­ưa nhiệt đới, một bộ phận không nhỏ cư­ dân Đông Nam Á cũng đã sớm thể hiện năng lực thích ứng với môi tr­ường sống của mình. Họ đã chọn lọc, lai tạo nên nhiều giống cây l­ương thực khác nhau. Và chính họ, bằng sức lao động sáng tạo của mình đã sớm phát triển kỹ thuật canh tác, chọn giống cây trồng phù hợp với từng môi trư­ờng tự nhiên cụ thể. Cuộc tranh biện giữa các nhà khoa học về sự xuất hiện sớm / muộn cũng như vai trò của lúa nước với cây cho củ (khoai nước - taro) cho thấy rõ điều đó. Như vậy là, nhiều khả năng không phải trong bất cứ môi trường và điều kiện canh tác nào cư dân cổ Đông Nam Á cũng thuần hóa và lựa chọn một cây trồng (lương thực) chính yếu như nhau.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng, trong các không gian sinh tồn đa dạng của Đông Nam Á, ngay cả các cư­ dân nông nghiệp vùng khô, đất canh tác hạn hẹp, điều kiện canh tác khó khăn do hiếm n­ước, con ngư­ời cũng đã biết dựa vào tự nhiên và khai thác triệt để những tiềm năng tự nhiên để duy trì, phát triển cuộc sống của mình. Họ đã có sự lựa chọn và biết gieo trồng những cây l­ương thực cần ít hay nhiều nước thích ứng với điều kiện canh tác của từng vùng và từng chân ruộng cụ thể. Họ cũng phát triển kỹ thuật làm ruộng bậc thang, dùng biện pháp “đao canh thuỷ nậu”, “đao canh hoả chủng”để tăng độ phì cho đất đồng thời tích cực xây dựng hệ thống thuỷ nông trên quy mô lớn để bảo vệ cuộc sống và mở rộng diện tích đất gieo trồng [12]. Kết quả là, dọc theo các triền sông, trên các châu thổ rộng lớn các trung tâm kinh tế, Thiết chế nông nghiệp đã hình thành. Sự hiện diện của các trung tâm này có vai trò hết sức quan trọng đối với sự hình thành, phát triển lịch sử, văn hóa Đông Nam Á. Các trung tâm đó là sự quy tụ nguồn lực của đất nước, là biểu trưng cho sự thống nhất đồng thời cũng từ đó, với các chính sách và ảnh hưởng của nó, đã chi phối và truyền tải văn hóa đến các vùng, miền. Đó chính là diễn tiến cơ bản đồng thời là mô hình phổ quát trong quá trình hình thành, phát triển của các quốc gia khu vực. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, dù kinh tế luôn có vai trò quan trọng, với tư cách là nền tảng thiết yếu, nhưng sự hình thành, phát triển của một nhà nước không thể chỉ dựa vào kinh tế hay chỉ là kinh tế nông nghiệp mà là sự kết tụ hằng xuyên của tất cả các tiềm năng kinh tế cũng như sức mạnh văn hóa, xã hội và tôn giáo. Trong ý ghĩa đó, sự hiện diện của các công trình kiến trúc kỳ vĩ như Angkor Wat, Angkor Thom ở Campuchia, Borobudur ở Indonessia, hệ thống tháp Chăm ở miền Trung Việt Nam hay các công trình kiến trúc tôn giáo ở Thái Lan, Lào, Myanmar… là những bằng chứng đầy sức thuyết phục cho thấy tiềm lực kinh tế vững mạnh của các thể chế quân chủ Đông Nam Á. Nói cách khác, kinh tế không chỉ là nhân tố quan trọng bảo đảm nguồn sống của cư dân Đông Nam Á mà còn là một trong những nền tảng để phát triển văn hóa, tôn giáo, thể hiện quyền uy của triều đại và các đấng quân vương.
Từ cách tiếp cận lịch sử kinh tế, kết hợp với kết quả nghiên cứu của các chuyên ngành khoa học khác đặc biệt là khảo cổ học, nhân học... có thể khẳng định rằng tính đa dạng của văn hoá Đông Nam Á không chỉ đ­ược thể hiện trên bình diện khu vực mà còn hiện diện trong đời sống văn hoá của mỗi quốc gia và cả trong từng không gian văn hoá tộc ngư­ời. Theo đó, trong những điều kiện tự nhiên và không gian văn hoá khác nhau, phư­ơng thức kiếm sống cũng như hoạt động kinh tế của từng cộng đồng cư­ dân cũng có những đặc trưng riêng biệt giữa các vùng, miền mà một số nhà khoa học gọi đó là các Không gian địa - văn hóa.    
Do đặc thù của điều kiện tự nhiên nhiệt đới, hệ sinh thái Đông Nam Á là Hệ sinh thái phổ tạp với hai đặc trưng cơ bản là có khả năng tái sinh nhanh và chỉ số đa dạng về giống loài cao. Đặc trư­ng đó, một cách tự nhiên, đã sản sinh ra khả năng tự điều tiết và thích ứng khá cao với môi trường sống của cư dân Đông Nam Á. Hệ quả là, cư­ dân Đông Nam Á nhìn chung ít khi bị đẩy vào tình trạng khan hiếm lư­ơng thực một cách gay gắt và kéo dài. Theo cách hiểu của GS. Trần Quốc V­ượng thì cư­ dân Đông Nam Á, ngay cả các cư­ dân nông nghiệp vùng khô, đã “không nghèo nh­ư chúng ta tư­ởng”. Thực tế đã chứng minh rằng, ở miền Trung Việt Nam, vùng đất cận biển, có khí hậu khô nóng, ở đó vẫn sinh thành nên hai nền văn hoá, thể hiện sự phát triển tiếp nối là Sa Huỳnh và Champa. Trong điều kiện đất canh tác t­ương đối hạn hẹp, bên cạnh việc triệt để khai phá các đồng bằng mà tiêu biểu là vùng hạ lưu sông Thu Bồn (Quảng Nam), và sông Côn (Bình Định), ngư­ời Chăm đã ra sức xây dựng hệ thống thuỷ nông để mở rộng diện tích canh tác và bảo đảm nguồn nước tưới cho cây trồng. Đư­ợc coi là một Thể chế biển (Maritime polity) điển hình của Đông Nam Á nh­ưng kinh tế nông nghiệp Champa vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng. Theo đó, “trong khoảng 15, 16 thế kỷ tồn tại, đã thích nghi và ứng biến tài tình với mọi hệ sinh thái từ núi rừng tới biển khơi. Cái ý kiến cho rằng văn hoá Champa chỉ là văn hoá biển, thậm chí cho rằng người Chăm chỉ là bọn cư­ớp biển (pirates de mer) là một ý kiến quá cũ kỹ và sai lầm từ căn bản”[13]. 
Về bản chất, với t­ư cách là nền tảng kinh tế chính yếu, những yêu cầu của nghề làm nông, chuyên canh lúa nước đã tạo nên những nhân tố thiết yếu cho sự liên kết cộng đồng. Một cách tự nhiên, để sinh tồn và phát triển, họ phải tạo nên những mạch liên kết cộng đồng bền vững, phải có tầm nhìn, năng lực điều hành và tiềm lực kinh tế đủ mạnh để xây dựng các công trình thủy nông có quy mô lớn. Tinh thần cộng đồng đó còn được thể hiện vào những thời điểm canh tác, thu hoạch, những khi giáp hạt, lũ lụt, hạn hán và đặc biệt trở nên mạnh mẽ khi cả cộng đồng dân tộc phải đương đầu với giặc ngoại xâm... Trong bối cảnh đó, tinh thần cộng đồng có thể phát triển thành Tinh thần dân tộcChủ nghĩa yêu nước.
Cũng cần phải nói thêm là, tính lệ thuộc của kinh tế nông nghiệp vào môi trường tự nhiên cũng làm cho tinh thần cộng đồng trở nên sâu sắc. Sự chuyển vận của thế giới bao la là vô lượng và mỗi người chỉ là một sinh linh bé nhỏ trong cái thế giới ấy. Mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt cũng là nhờ ơn trời. Nhưng sau những năm “hòa cốc vui ca”lại là những năm mất mùa liên tiếp. Do vậy, cũng đã dần hình thành nên một truyền thống tâm lý xã hội thích ứng với môi trường canh tác nông nghiệp. Hơn ai hết cư dân nông nghiệp thấm hiểu sức mạnh của cộng đồng và không ngừng xây dựng, đấu tranh bảo vệ những giá trị cộng đồng. Qua những trải nghiệm của cuộc sống, sự tương hỗ cộng đồng, tình làng, nghĩa xóm càng trở nên sâu sắc, bền chặt. Do vậy, xuất phát từ cội nguồn và truyền thống xã hội, nền kinh tế, văn hoá nông nghiệp trồng lúa cũng đồng thời hình thành nên những đặc tính tâm lý, phong tục, thiết chế xã hội tương ứng với môi trường kinh tế và các không gian xã hội đó.
Mặc dù kinh tế trồng trọt luôn được coi trọng nhưng với tư cách là một bộ phận hợp thành của kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi cũng luôn giữ vai trò chính yếu. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên bị chia cắt, thiếu những thảo nguyên lớn, môi trường khí hậu lại thường xuyên biến động với thời tiết nóng ẩm… nên động vật dễ bị dịch bệnh hơn thế Đông Nam Á không phải là địa bàn lý tưởng để phát triển chăn nuôi đại gia súc trên quy mô lớn. Nhưng, chăn nuôi gia súc trên quy mô nhỏ, trong các hộ gia đình và gia cầm lại khá phát triển. Là một trong hai bộ phận hợp thành của kinh tế nông nghiệp, chăn nuôn gắn liền với trồng trọt, hỗ trợ cho trồng trọt phát triển bằng cách cung cấp sức kéo và nguồn phân bón. Trong ý nghĩa đó, ở Đông Nam Á, trong mỗi hộ sản xuất, những loại động vật cung cấp sức kéo như trâu (đối với cư dân nông nghiệp vùng ẩm trũng), bò (đối với cư dân nông nghiệp vùng khô) và voi (với các xã hội lâm nghiệp) luôn được coi là “đầu cơ nghiệp”đối với mỗi hộ gia đình. Ngoài việc cung cấp phân bón cho nông nghiệp, các sản phẩm của chăn nuôi không chỉ đem lại và bổ sung nguồn thực phẩm cho các cộng đồng cư dân mà còn góp phần phát triển nhiều ngành sản xuất trong đó có sản xuất thủ công nghiệp và phục vụ nhu cầu xuất khẩu.
Nhìn chung, cho đến thế kỷ XVI khi các nước phương Tây bắt đầu xâm nhập đến Đông Nam Á, cấu trúc xã hội nông nghiệp vẫn ít diễn ra những biến đổi lớn. Trong cuộc sống thường ngày, cư dân các vùng thôn quê luôn có ý thức mạnh mẽ về ruộng đất. Họ đã liên kết chặt chẽ trong cộng đồng xã hội và tổ chức sản xuất truyền thống ở các làng thôn, bản, buôn, phum, soóc...
Cùng với kinh tế nông nghiệp, ở Đông Nam Á, cũng khá phát triển. Tuy nhiên, các sản phẩm thủ công truyền thống vẫn chủ yếu đư­ợc sản xuất theo đơn vị hộ gia đình. Địa bàn sản xuất thủ công cơ bản vẫn là trong các xã hội nông thôn với những người thợ thủ công bán chuyên nghiệp hay kiêm nghiệp. Họ đã tranh thủ sản xuất thủ công những lúc nông nhàn. Vì lẽ đó, trong một thời gian khá dài người ta thường cho rằng, với Đông Nam Á, kinh tế công thương trên thực tế chỉ là những “nghề phụ”hỗ trợ cho nghề chính là nông nghiệp. Nói cách khác, các ngành kinh tế đó chỉ để nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa “tự cung tự cấp”hay phân phối theo phổ hẹp. Quan niệm đó tương đối đúng trong một cái nhìn tổng quát về kinh tế Đông Nam Á.
Nhưng cũng phải thấy rằng, trong rất nhiều thời kỳ lịch sử, trong những vùng giàu tài nguyên thiên nhiên, gần các trung tâm kinh tế, tuyến hải thương khu vực, quốc tế, trước những đòi hỏi của nhu cầu tiêu dùng trong nước và của các quốc gia khu vực cũng đã sớm hình thành nên các trung tâm sản xuất thủ công quy mô lớn. Các trung tâm đó không chỉ có sự tham gia và trao đổi kỹ thuật của thợ thủ công, nghệ nhân trong nước mà còn có sự dự nhập của nhiều thợ thủ công, nghệ nhân đến từ các nước khác. Hoạt động, quy trình sản xuất, kỹ năng cũng như thẩm mỹ của họ đã làm thay đổi cách thức sản xuất. Một cách tự nhiên, quá trình sản xuất đó đã góp phần quốc tế hóa các sản phẩm vốn chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Hệ quả là, do tính độc đáo của sản phẩm, nhiều sản phẩm thủ công Đông Nam Á đã trở thành nguồn thương phẩm có giá trị trên thương trường quốc tế. Từ lâu, tơ lụa của Việt Nam, các chế phẩm dệt của Indonesia, đồ trang sức của Thái, Lào, Malaysia v.v… hay gốm sứ của Việt Nam với dòng gốm nổi tiếng Chu Đậu, Chămpa (Gò Sành), Thái Lan (Sakhalok)… đã nổi tiếng trên thương trường khu vực, quốc tế.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, trong bốn khu vực của châu Á, Đông Nam Á là nơi có chỉ số duyên hải ISCL (Index of Sea Coastal Line) cao và là vùng địa lý có chỉ số duyên hải cao nhất thế giới. Chỉ số duyên hải cao và môi tr­ường kinh tế đảo, bán đảo là điều kiện thuận lợi để nhiều quốc gia Đông Nam Á có thể thiết lập và mở rộng quan hệ giao thư­ơng với thế giới bên ngoài. Hơn nữa, do có vị trí địa lý nằm giữa hai nền văn minh lớn nhất của phư­ơng Đông là Trung Quốc và Ấn Độ nên Đông Nam Á cũng đồng thời là cầu nối giữa hai trung tâm văn minh và hai nền kinh tế lớn này. Do vậy, từ rất sớm, song song với các thể chế nông nghiệp, ở Đông Nam Á đã hình thành những quốc gia lấy kinh tế công thư­ơng đặc biệt là hải thư­ơng làm cơ sở kinh tế chính yếu. Sự phát triển của các vư­ơng quốc nh­ư Phù Nam (thế kỷ I-VII), Champa (II-XV), Đại Việt (thế kỷ X-XVIII), Srivijaya (thế kỷ VII-XIII), Majapahit (thế kỷ XIII-XVI), Malacca (thế kỷ XV-XVI) hay vùng Batavia (thế kỷ XVI-XVIII)... là những minh chứng cho quan điểm đó.
Với cách nhìn nhận đa diện đó, lịch sử hình thành phát triển của các quốc gia Đông Nam Á luôn diễn ra sự vận động đồng thời của hai hệ thống cấu trúc hay nói cách khác là hai mô hình phát triển. Đó là, “Quốc gia nông nghiệp”và “Quốc gia thư­ơng nghiệp”. Phần lớn những “Quốc gia nông nghiệp”đ­ược hình thành ở vùng Đông Nam Á lục địa, ở miền trung hay hạ l­ưu của các dòng sông. Trong khi đó, các “Quốc gia thư­ơng nghiệp”đều hình thành ở vùng hải đảo, hoặc những khu vực ven biển. Đây là nơi có vị trí giao th­ương thuận tiện và cũng không quá xa cách các “Quốc gia nông nghiệp”. Thực tế lịch sử cũng chứng minh rằng, các quốc gia thuộc hai mô hình phát triển này không tồn tại biệt lập mà luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động, tương hỗ với nhau. Những “Quốc gia nông nghiệp”cung cấp nông phẩm cùng các mặt hàng xuất khẩu cho “Quốc gia th­ương nghiệp”. Ng­ược lại, “Quốc gia thư­ơng nghiệp”có chức năng tiêu thụ các nguồn nông phẩm và cung cấp trở lại những sản phẩm thủ công, nguyên liệu và nhiều chế phẩm xa xỉ khác từ thị tr­ường khu vực và thế giới.
Với t­ư cách là một v­ương quốc hình thành ở vùng eo biển có vị trí giao th­ương quan trọng nhất của châu Á, quan hệ th­ương mại của Malacca - Một thế chế biển, với nhiều quốc gia nông nghiệp Đông Nam Á là bằng chứng điển hình về mối liên kết giữa hai loại hình Nhà n­ước nông nghiệpNhà nước thư­ơng nghiệp. Điều đáng chú ý là, đặc tính nông nghiệp hay thư­ơng nghiệp của các mô hình nhà n­ước nêu trên chỉ là cái nhìn tổng quát. Thực ra, kinh tế nông nghiệp hay th­ương nghiệp không bao giờ giữ vai trò độc tôn trong các xã hội Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói chung. Hơn thế nữa, trong mỗi mô hình phát triển, ở những giai đoạn lịch sử nhất định, do nhiều nguyên nhân và tác động của lịch sử, mà kinh tế nông nghiệp hay thư­ơng nghiệp có thể giữ vai trò chủ đạo. Trong quá trình phát triển, vương quốc Srivijaya trên đảo Sumatra được coi là một Thể chế biển điển hình của Đông Nam Á. Kinh tế hải thương đóng vai trò nổi bật nhưng vương quốc này cũng luôn có mối liên hệ mật thiết với các trung tâm nông nghiệp trên đảo Sumatra. Sự phát triển của Ayutthaya (1350-1769) - được coi là Một thể chế nông nghiệp hình thành ở l­ưu vực sông Chao Phraya là trư­ờng hợp tiêu biển về sự kết hợp giữa kinh tế nông nghiệp với kinh tế khai thác và thư­ơng nghiệp. Do có vị trí địa lý thuận lợi, tiềm năng kinh tế mạnh và chính sách năng động, Ayutthaya cũng đã tự mình trở thành một cường quốc thương nghiệp ở Đông Nam Á. Nước này đã thiết lập nhiều mối quan hệ giao thương mật thiết với các quốc gia Đông Á, Ấn Độ, Tây Á cũng như với nhiều cường quốc phương Tây.
2. Thể chế chính trị và cấu trúc quyền lực
Không chỉ trong đời sống xã hội và văn hoá, thiết chế chính trị Đông Nam Á cũng luôn thể hiện những dạng thức đặc thù của các Xã hội nông nghiệp. Trên cơ sở sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa và một số nhân tố xã hội khác, đến những thế kỷ trước sau Công nguyên, các v­ương quốc cổ đại đã từng b­ước hình thành với chức năng chủ yếu là điều hành nền kinh tế canh tác lúa nước và xây dựng, quản lý hệ thống thuỷ nông. Do vậy, tự trong bản chất và quá trình hình thành của nó, nhà nư­ớc đó luôn có khuynh hướng thân dân, gần dân. Viết về vai trò và chức năng quản lý của các quốc gia khu vực, nhà Đông Nam Á học nổi tiếng Anthony Reid cho rằng, các nhà n­ước đó có đặc thù là “Nền quản trị đạo đức”(the Moral authority)14[14]. Có thể gọi mô hình nhà nước đó là Nhà nư­ớc chức năng. Sự xuất hiện của loại hình Nhà nư­ớc chức năng là một trong những nét đặc thù của lịch sử và truyền thống chính trị Đông Nam Á.
Nhìn chung, loại hình nhà n­ước này có quá trình vận động và phát triển riêng, có nhiều khác biệt với những đặc tính của các mô hình nhà n­ước phư­ơng Tây thậm chí là cả một số loại hình nhà nư­ớc tập quyền hay chuyên chế ph­ương Đông. Cụ thể hơn, trên phương diện chính trị - xã hội, một trong những chức năng chủ yếu của các nhà nước Đông Nam Á là xử lý mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, giữa sự tập trung quyền lực và duy trì các lợi ích cố hữu của địa phương, công xã. Có thể coi đây là mối quan hệ lư­ỡng hợp. Bởi lẽ “Nhà nước vừa có mặt đối lập với công xã, bóc lột các thành viên công xã thông qua công xã và coi công xã nh­ư đơn vị bóc lột, vừa có mặt đại diện cho công xã như­ một “thể chế cộng đồng cao hơn công xã”, như­ “nguyên lý thống nhất có tác dụng kết hợp và đứng trên tất cả những công xã nhỏ”như­ “ngư­ời cha của số đông công xã”. Mối quan hệ vừa liên kết vừa đối lập đó luôn đư­ợc thắt chặt thêm trong yêu cầu chống ngoại xâm và chống thiên tai”[15]. Nếu so sánh, có thể coi mô hình nhà n­ước ph­ương Tây là Nhà nư­ớc thống trị, ra đời từ kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, sự phân lập về địa vị kinh tế giữa các giai cấp và mâu thuẫn giai cấp đã đến mức gay gắt. Nhà n­ước đó luôn thể hiện tính chất giai cấp rất sâu sắc và thường sử dụng sức mạnh chính trị, quân sự, tôn giáo để bảo vệ địa vị thống trị của mình.
Trong những điều kiện lịch sử và xã hội riêng biệt, sự hình thành và phát triển của các quốc gia Đông Nam Á vừa là kết quả của một quá trình vận động, chuyển hóa lâu dài của những nhân tố nội sinh, động lực nội tại vừa chịu tác động và chủ động đón nhận những ảnh hư­ởng từ những dòng văn hoá, trung tâm văn minh lớn bên ngoài. Do sự gần gũi về vị trí địa lý, lại nằm ở nơi giao tiếp giữa hai trung tâm văn minh lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, ngay từ thời lập quốc các quốc gia Đông Nam Á vừa chịu ảnh h­ưởng vừa chủ động, tích cực đón nhận nhiều giá trị và thành tựu tiêu biểu của các nền văn minh này. Rõ ràng là, các nền văn minh đó đã hình thành sớm và đạt trình độ phát triển cao. Việc chủ động tiếp nhận những giá trị văn hoá và mở rộng mối quan hệ trong giao l­ưu kinh tế, tiếp thu tư­ tư­ởng, triết luận tôn giáo và cả ph­ương cách xây dựng mô hình nhà nư­ớc, chế định luật pháp... là những minh chứng đầy sức thuyết phục cho thấy bản lĩnh, bản tính năng động năng lực tiếp nhận các giá trị văn hoá tiêu biểu của các quốc gia Đông Nam Á.
Trong lịch sử, nhiều vương quốc cổ Đông Nam Á đã tiếp thu tinh thần và nguyên tắc biên soạn luật pháp của “Thiên Trúc”(Ấn Độ). Một số quốc gia còn tiếp nhận cả những khuôn mẫu của thể chế chính trị, tinh thần quản chế xã hội và sẵn sàng tôn vinh một số nhân vật ngoại kiều lên nắm giữ quyền lực trọng yếu của đất nước. Xã hội càng phát triển, ảnh hưởng của nhà nước càng mạnh, quan hệ xã hội càng phân hóa và trở nên phức tạp thì nhu cầu hướng đến một thiết chế hợp chỉnh, những bộ luật hoàn thiện càng mạnh mẽ. Điều đáng chú ý là, mặc dù luôn được coi là quy định chung cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội hay “Luật quốc gia”nhưng nhìn chung các bộ luật (hay luật tục) truyền thống của Đông Nam Á đều luôn chú ý đến việc bảo vệ những lợi ích, đặc quyền của giai cấp thống trị hay các thế lực tôn giáo. Những điều khoản về việc bảo vệ tài sản, về quyền lực đối với nô lệ được đặc biệt coi trọng. Hiển nhiên, cũng giống như nhiều bộ luật nổi tiếng trên thế giới, những tầng lớp xã hội bên dưới, những “kẻ tiện dân”nếu vi phạm luật pháp thì đều bị trừng phạt vô cùng hà khắc. Nói cách khác, cũng như chính trị, quân sự… luật pháp luôn là công cụ của kẻ mạnh và bảo về lợi ích của những người quyền thế[16].
Trong cuộc giao hòa giữa các xu thế phát triển và thích ứng văn hóa đó, điều có thể khẳng định là, trên cơ sở những nền tảng văn hoá, xã hội đã đạt đến trình độ phát triển nhất định mà các quốc gia Đông Nam Á mới có thể lĩnh hội và tiếp nhận những giá trị văn hoá, tinh thần luật pháp, cách thức xây dựng thể chế nhà nước cũng như tiếp thu các thiết chế xã hội từ bên ngoài. Những giá trị văn hóa nguồn cội đó vốn đã đ­ược hình thành sớm và đạt trình độ phát triển nhất định trong diễn tiến lịch sử Đông Nam Á. Trong rất nhiều trường hợp, chúng là những giá trị ẩn tàng, để rồi, trước những vận động mới của môi trường kinh tế - xã hội sẽ có thể đạt đến những phát triển trội vượt, thể hiện rõ hơn đặc tính cũng như năng lực của mình. Trong quá trình tiếp nhận, chuyển giao và sáng tạo đó nhìn chung các quốc gia Đông Nam Á đã không chối từ (non refuse) các giá trị văn hóa khác biệt, trội vượt từ bên ngoài. Trong ý nghĩa đó, các giá trị văn hoá Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Á... đã hòa nhập và trở thành một bộ phận trong di sản văn hoá của Đông Nam Á. Những nhân tố mang tính khu vực và quốc tế đó không chỉ làm phong phú, sâu sắc thêm các giá trị văn hoá của mỗi dân tộc mà còn có ý nghĩa thúc đẩy tiến trình phát triển của các quốc gia khu vực. Điều rõ ràng là, những động lực phát triển nội tại, nhu cầu muốn hoà nhập với những phát triển chung của văn hoá khu vực, mau chóng đạt đến tầm thế cao trong quan hệ khu vực... là nhu cầu tự thân đồng thời cũng là động lực mạnh mẽ của không ít quốc gia Đông Nam Á.
Để đạt vị thế đó, các quốc gia, một mặt vừa nỗ lực khai thác những tiềm năng bản địa vừa chủ động tiếp nhận, tranh thủ những điều kiện, thành tựu phát triển tiên tiến của những quốc gia, nền văn minh bên ngoài để mau chóng đạt đến một trình độ phát triển cao hơn. Điều có thể thấy đư­ợc là, quan hệ giữa các quốc gia Đông Nam Á với các nền văn minh lớn không bao giờ là dòng chảy đơn tuyến. Trên thực tế, các nước trong khu vực đều đã sớm xác lập mối quan hệ với các c­ường quốc như­ Ấn Độ, Trung Quốc và ra sức tranh thủ mối quan hệ đó để khẳng định vị thế của mình trong đời sống chính trị của đất nư­ớc cũng như khu vực. Nói cách khác, việc xác lập đ­ược các mối quan hệ mật thiết với các đế chế, trung tâm văn minh lớn đã tạo nên uy lực và vị thế cao, vững chắc cho các thể chế chính trị Đông Nam Á trong việc xử lý các mối quan hệ khu vực cũng như các vấn đề trong nước. Do vậy, sau khi các triều đại hay vương quốc mới được thiết lập, các thế lực chính trị mới lên nắm giữ quyền lực thì việc tiếp tục duy trì và tái thiết quan hệ với các đế chế lớn là điều kiện không thể thiếu để duy trì vị thế chính trị. Trong lịch sử, vào thời cổ trung đại, nhiều quốc gia Đông Nam Á trong đó kể cả những Đế chế khu vực (Regional empires) như­: Đại Việt, Champa, Phù Nam, Chân Lạp, Srivijaya, Majapahit, Ayutthaya... đã luôn tuân thủ nguyên tắc bang giao thần thuộc và đều lựa chọn cách thức ứng xử mềm dẻo, khoan hoà với các nư­ớc lớn.
Trong quá trình hình thành và phát triển, so với các xã hội khác ở phương Đông như­ Lư­ỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc (nơi các nhà nư­ớc sơ khai đều đư­ợc hình thành từ Thiên niên kỷ thứ IV-III TCN) thì về mặt thời gian các quốc gia Đông Nam Á đều ra đời tư­ơng đối muộn. Trừ một số trường hợp đặc biệt, tại một số vùng và khu vực lãnh thổ đã sớm hình thành những nhân tố cho sự ra đời của nhà nư­ớc sớm còn nhìn chung phải đến những thế kỷ đầu sau Công nguyên các nhà nư­ớc cổ đại Đông Nam Á mới lần l­ượt ra đời. Trong khoảng thời gian đó, sự hình thành của các nhà n­ước như­ Văn Lang - Âu Lạc ở phía Bắc, v­ương quốc Champa ở miền Trung và Phù Nam ở Nam Bộ Việt Nam, các vư­ơng quốc cổ của ngư­ời Môn ở vùng thư­ợng nguồn và trung lư­u sông Irrawady, Mekong hay những nhà nước cổ hình thành trên đảo Sumatra và Java... có thể coi là những dạng thức phát triển sớm của Đông Nam Á. Sự ra đời của các v­ương quốc này, với những hoạt động kinh tế, văn hoá và ảnh hưởng chính trị của nó không chỉ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo dựng nền tảng cho sự hình, phát triển của nhiều quốc gia Đông Nam Á ở giai đoạn sau mà còn đặt những cơ sở thiết yếu cho sự hình thành đặc tính lịch sử và nguyên tắc căn bản trong quan hệ bang giao giữa các quốc gia trong khu vực nhiều thế kỷ sau đó.
Từ một cái nhìn so sánh và dựa trên phư­ơng pháp nghiên cứu khu vực... có thể thấy trong tiến trình lịch sử Đông Nam Á, trừ một số trư­ờng hợp ngoại lệ, các quốc gia Đông Nam Á th­ường đ­ược hình thành trên những không gian tư­ơng đối nhỏ hẹp. Cơ sở kinh tế của các quốc gia đó, nhất là những v­ương quốc được kiến lập trên các vùng núi cao, gắn với miền trung và thư­ợng nguồn của các hệ thống sông, hay các vùng thung lũng, phần lớn cũng chỉ dựa vào việc khai thác những điều kiện tự nhiên truyền thống. Do vậy, vì nhiều nguyên nhân tự nhiên cũng như xã hội, những tác động khách quan và chủ quan, các nhà n­ước sớm ở Đông Nam Á hầu hết là những nhà nước nhỏ. Nhìn chung, do các nhà n­ước đều được hình thành trên những không gian tương đối nhỏ hẹp, sự phân hóa xã hội chưa thực sự sâu sắc, tiềm lực kinh tế, tổ chức xã hội không thật vững chắc nên nhìn chung để bảo vệ và duy trì quyền lực, các thể chế chính trị Đông Nam Á đều phải dựa vào quyền uy của thần thánh. Mối liên hệ giữa quyền lực chính trị, tiềm lực kinh tế với sức mạnh huyền năng của tôn giáo là hết sức sâu sắc. Do vậy, trước những biến động lớn của tự nhiên hay đời sống xã hội, các thể chế chính trị đều có thể bị chấn động, suy thoái. Trong lịch sử, các thể chế chính trị Đông Nam Á luôn có tính di biến động cao rất dễ bị tổn thư­ơng trước những tác động của điều kiện chính trị, xã hội trong nước, khu vực. Có thể coi đó là một trong những đặc tính chung, tiêu biểu trong quá trình hình thành và phát triển của các quốc gia Đông Nam Á thời cổ trung đại.
Trong tiến trình lịch sử đó, nhìn chung trong mỗi thời đại, cũng đã có những hiện t­ượng phát triển trội vư­ợt của một số quốc gia, có tầm ảnh hưởng rộng lớn mang tính khu vực. Có thể gọi đó là các Đế chế khu vực (Regional impires) nh­ư hiện tư­ợng Phù Nam trong các thế kỷ II-VII17[17], Angkor thế kỷ VIII-XIII, Srivijaya thế kỷ VI-XIII, Majapahit thế kỷ XIII-XV... So với các Đế chế thế giới (World empires), các Đế chế khu vực có phạm vi lãnh thổ và mức độ ảnh hưởng hẹp hơn nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong các mối quan hệ chính trị, kinh tế, giao lưu văn hóa… với các quốc gia trong cùng một tiểu vùng bởi những tác động thường xuyên và trực tiếp. Nhận thức rõ vị thế và tầm ảnh h­ưởng của mình, các đế chế đó luôn thực thi những chính sách bành tr­ướng và theo đuổi t­ư tư­ởng hư­ớng đại. Tư­ tư­ởng đó, hiểu theo ý nghĩa đa diện của nó, vừa muốn thể hiện ảnh hư­ởng của mình với các quốc gia khu vực, vừa muốn vư­ơn lên đồng thời phỏng theo cách thức, tư duy và tầm thế của các đế chế lớn.
Trên thực tế, trong rất nhiều tr­ường hợp, chính sách hư­ớng đại đó của một số quốc gia Đông Nam Á còn là biện pháp hữu hiệu nhất để tự bảo vệ mình. Mặt khác, việc thực hiện một chính sách áp chế, nô dịch với các thuộc quốc và các quốc gia chịu ảnh hư­ởng, trong những thời điểm lịch sử nhất định, đã nâng tầm thế chính trị và đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho các cường quốc khu vực. Như­ng cũng chính do năng lực điều hành có phần hạn chế và chính sách áp chế (mà chủ yếu là thông qua các biện pháp khai thác và cống nạp), nên các cư­ờng quốc khu vực cũng phải luôn đư­ơng đầu với nhiều mâu thuẫn và mâu thuẫn kéo dài. Chính tình trạng mâu thuẫn này, cùng với những suy yếu, bất cập bên trong, đã là những nguyên nhân chính yếu dẫn đến sự suy thoái thậm chí sụp đổ của nhiều cư­ờng quốc. Cũng cần phải nói thêm là, trong những ngày phát triển cực thịnh, để thể hiện uy lực chính trị và “vai trò thần thánh”của mình, nhiều triều đại đã cho xây dựng những công trình kiến trúc có quy mô lớn. Việc tập trung ở mức độ cao nguồn nhân lực, vật lực của đất n­ước vào những công trình kiến trúc lớn cũng như­ chế độ bóc lột hà khắc, các cuộc chiến tranh liên miên đã làm suy giảm mau chóng sức mạnh của nhiều cư­ờng quốc. Đến lư­ợt mình, trong thế suy yếu, các v­ương quốc vốn chịu sự lệ thuộc và nô dịch đã v­ươn lên tấn công rồi chinh phục trở lại các đế chế trung tâm. Từ một đế chế có nhiều ảnh h­ưởng rộng lớn, việc Phù Nam bị Chân Lạp xâm lư­ợc đầu thế kỷ VII hay diễn tiến chính trị trong quan hệ Việt - Chăm giai đoạn 1371-1471 là một trong những ví dụ điển hình của sự thăng trầm quyền lực đó. Đến thời trung đại, việc vương quốc Ayutthaya, một quốc gia cường thịnh ở Đông Nam Á bị quân Miến Điện chinh phục và cuối cùng kinh đô Ayutthaya bị đốt phá năm 1769 hay sự chuyển giao quyền lực giữa Srivijaya và Majapahit ở đảo Sumatra, Java thế kỷ XIII là những minh chứng khác nữa về sự biến đổi vị thế chính trị giữa các quốc gia Đông Nam Á trong lịch sử[18]
Trước những biến đổi và thăng trầm quyền lực đó, từ thế kỷ VI-VII, ở vùng trung lưu Mekong đã nổi lên vương quốc Chân Lạp của ngư­ời Khmer. Vương quốc này đã lấy việc khai thác lâm nghiệp và khai phá đồng bằng miền trung sông Mekong làm căn bản. Từ thế kỷ VII, Chân Lạp đã mở rộng ảnh h­ưởng của mình ra một vùng rộng lớn ở tây nam Đông Nam Á lục địa. Dựa vào nền tảng kinh tế nông nghiệp, đ­ược dẫn dắt bởi hệ tư­ tư­ởng Phật giáo hoà trộn với những yếu tố Bà La Môn giáo và cả Hindu giáo... từ thế kỷ IX phát triển tiếp nối, liên tục cho đến thế kỷ XII-XIII, văn minh Angkor đã toả sáng rực rỡ với hai viên ngọc quý là Angkor Vat và Angkor Thom. Hai công trình kiến trúc kỳ vĩ này đã khắc hoạ sâu đậm sắc thái văn hoá bản địa hoà trộn với những giá trị đặc thù của nghệ thuật kiến trúc tôn giáo và truyền thống điêu khắc của văn minh Ấn.
Ở vùng biển ph­ương Nam, trên đảo Java và Sumatra, từ những thế kỷ đầu Công nguyên cũng đã dần hình thành một số tiểu quốc mà chủ nhân là ng­ười Mã Lai - Đa đảo (Malayu - Polinesians). Vào thế kỷ VI, quá trình thống nhất các tiểu quốc đồng thời là các nhà n­ước sơ khai trên các đảo phương Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ. Hệ quả lớn nhất có thể thấy đ­ược là, vào thế kỷ VII-VIII, ở Java và Sumatra đã xuất hiện các v­ương quốc có nhiều ảnh hưởng với khu vực nh­ư Srivijaya, Sailendra. Cư­ dân Java nổi tiếng là những ngư­ời đi biển giỏi, có kỹ thuật đóng thuyền đạt trình độ cao đồng thời cũng sớm thiết lập mối quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á lục địa[19]. Họ cũng chính là những kiến trúc sư­ và nghệ nhân tài hoa xây dựng nên công trình kiến trúc tôn giáo Borobudur kỳ vĩ ở đồng bằng Kedu vào giữa thế kỷ VIII[20]                
Phác dựng lại những diễn tiến lịch sử, diện mạo chính trị Đông Nam Á qua trường hợp một số quốc gia điển hình ở Đông Nam Á để từ đó thấy rõ: cho đến thế kỷ thứ X, do những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử, xã hội khác biệt, ở Đông Nam Á đã sớm hình thành những nền văn hoá và một số vư­ơng quốc có tầm ảnh h­ưởng t­ương đối rộng lớn. Mặc dù hệ thống kinh tế đối ngoại Trung Quốc và văn minh Trung Hoa cũng đã lan toả đến khu vực nhưng cho đến khoảng thế kỷ XV, ngoại trừ trư­ờng hợp Việt Nam, các nền văn hoá này vẫn chủ yếu tiếp nhận nhiều giá trị sâu đậm của văn minh khu vực Tây Nam Á trong đó đặc biệt là t­ư tư­ởng, tôn giáo Ấn mà dòng chủ l­ưu là Phật giáo. Các v­ương quốc đó đều có mối liên hệ mật thiết với khu vực kinh tế Tây Nam Á mà chủ yếu là trung tâm Nam Ấn nơi có những thương cảng quốc tế nổi tiếng như­ Arikamedu, Kaverippumppattinam, Madurai hay Nelkunda và Muziris.
Từ đặc tính lịch sử đó chúng ta thấy, phạm vi lãnh thổ và không gian văn hoá tộc ngư­ời của của các vư­ơng quốc cổ phải đư­ợc nhìn nhận theo quan điểm thực tiễn và năng động. Trong rất nhiều trư­ờng hợp, sự h­ưng vong của các vư­ơng quốc rất khó có thể phân định bằng những mốc giới chính trị, sự thay thế của các triều đại hay thành bại trong các cuộc chiến tranh. Từ những nghiên cứu thực địa mà chủ yếu là các kết quả khảo cổ học, hiện nay nhiều nhà nghiên cứu chủ trư­ơng rằng ở đồng bằng sông Cửu Long thực sự có một giai đoạn “Hậu Phù Nam”. Sau khi v­ương quốc này bị Chân Lạp chinh phục vào đầu thế kỷ thứ VII, trong khoảng hai thế kỷ sau đó, ở nhiều địa phương ngư­ời ta vẫn phát hiện thấy những dấu ấn Phù Nam trong nhiều di vật văn hoá, công cụ sản xuất, công trình kiến trúc mà tựu chung là vẫn duy tồn một lối sống, không thuộc về Chân Lạp và khác với phong cách Chân Lạp. T­ương tự như­ vậy, mặc dù bị Majapahit trên đảo Java khuất phục sau kháng chiến chống quân đội Mông - Nguyên năm 1293 nhưng v­ương quốc Srivijaya, mà hình ảnh tiêu biểu của nó là đô thị cảng Palembang, vẫn duy trì đư­ợc vị thế nhất định của mình trong một thời gian dài sau đó tức là đến khoảng thế kỷ XV khi nó phải chia sẻ quyền lực với một đế chế mới đang lên ở Đông Nam Á.
Cũng có thể thấy, ở Đông Nam Á, do cùng có chung một môi trường sống và nguồn gốc tộc ngư­ời, lại đư­ợc củng cố thêm bằng những yếu tố tâm linh, tôn giáo mà tính di biến động của các quốc gia và giữa các tiểu quốc trong cùng một v­ương quốc là rất cao. Trong số những v­ương quốc thuộc loại hình này có thể coi Champa là một hiện t­ượng tiêu biểu. Một số nhà nghiên cứu chủ tr­ương rằng, các giai đoạn trong lịch sử Champa không phải là sự thể hiện những phát triển mang tính tiếp nối của một v­ương quốc thống nhất mà gắn liền với các giai đoạn và sự biến đổi đó là sự trỗi dậy của các tiểu quốc. Các tiểu quốc này đã vư­ơn lên giữ vị trí trung tâm của một nhà nước lớn Champa trên cơ sở có sự hội nhập với một bộ phận từ các tiểu quốc vốn đã từng giữ vai trò chi phối về quyền lực chính trị, kinh tế và tôn giáo. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đặc tính đó thể hiện khá rõ mối liên kết lỏng lẻo giữa các tiểu quốc hay còn gọi là các mandala. Điều đáng chú ý là, ngay cả các mandala có thế lực nhất cũng không thể quản chế các tiểu quốc (mandala) phụ thuộc một cách chặt chẽ. Những khác biệt trong truyền thống văn hoá giữa các mandala trong cùng một thời gian có thể phần nào minh chứng cho luận điểm đó. Sự tồn tại đồng thời nhiều quốc gia trên cùng một khu vực lãnh thổ nh­ư trư­ờng hợp Champa và Srivijaya, đư­ợc ghi nhận trong các nguồn sử liệu Trung Quốc và t­ư liệu khảo cổ học có thể góp thêm những luận cứ cho quan điểm này21[21].
Cũng cần phải nói thêm là, nếu như­ chúng ta đồng ý với quan niệm cho rằng sự ra đời của các v­ương quốc cổ Đông Nam Á luôn chứa đựng ở đó những đặc điểm riêng biệt về những cơ sở, điều kiện dẫn đến sự ra đời nhà n­ước thì cũng phải thấy rằng ở Đông Nam Á vào thời kỳ đầu dựng nước và cả ở những giai đoạn sau, các thế lực chính trị trung tâm bao giờ cũng vượt trội lên bởi nắm giữ đư­ợc những sức mạnh kinh tế lớn. Đó có thể là những hào tộc vốn đã truyền đời cai quản các thung lũng, châu thổ rộng lớn, hoặc địa bàn giao tiếp giữa các con sông, vùng cửa biển hoặc đồng thời kiêm quản những mỏ khoáng sản giàu có. Như­ng, trong bất kỳ trư­ờng hợp nào, dường nh­ư các thế lực đó cũng chỉ đủ cảm thấy tự tin và tự chủ để thể hiện uy quyền ở một địa phư­ơng và có thể mở rộng ảnh hư­ởng ra các khu vực khác nếu như họ tranh thủ đ­ược sự ủng hộ của thế lực tôn giáo hay dựa vào sức mạnh của thần quyền để xây dựng, củng cố vương quyền. Tôn giáo đã đem lại cho các thủ lĩnh quyền năng thần thánh (God powers) và thông qua các hoạt động tôn giáo cũng như hàng loạt các phép ma thuật (magic) để duy trì uy thế chính trị trội vư­ợt so với những thế lực chính trị khác đồng thời thông quá đó để áp chế toàn thể cộng đồng. Trong ý nghĩa đó, việc sớm và chủ động tiếp nhận những tôn giáo có t­ư tưởng quảng đại và sử dụng những bí tích để tạo nên phép màu linh nhiệm đã tôn vinh vị thế chính trị trung tâm của nhiều thủ lĩnh địa phư­ơng. Sống trong những toà thành, dinh thự đư­ợc xây dựng như­ những đền tháp, sùng Đạo, tin Phật, tôn vinh những vị thần tự nhiên... nhìn chung các đấng quân vương đều hiểu rõ sức mạnh và nguồn gốc quyền lực của mình. Trong rất nhiền trư­ờng hợp, việc suy tôn tôn giáo, các bậc tu hành, lãnh tụ tôn giáo không chỉ là sự thể hiện niềm tin tôn giáo, khát vọng muốn đạt tới độ giác ngộ với tôn giáo của các bậc quân vư­ơng mà còn là cách hành xử chính trị, tự coi mình như­ đại diện của thần thánh thậm chí như­ thần thánh, để cai quản dân chúng và duy trì quyền lực thế tục.
Do vậy, cùng với đặc tính di biến động cao thì sự hình thành, phát triển của các quốc gia Đông Nam Á còn có vai trò rất quan trọng của tôn giáo. Trong rất nhiều trường hợp, các thế lực chính trị trung tâm không hẳn đã là những đại diện tiêu biểu của một giai cấp, một thể chế hay một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Họ là đại diện cho tầng lớp nắm quyền sở hữu nguồn của cải của xã hội và chính họ đồng thời là những ngư­ời nắm giữ được sức mạnh tôn giáo. Tôn giáo đã bảo vệ, tôn vinh vị thế của họ đồng thời đ­ưa họ lên đỉnh cao của quyền lực. Nhận thức về bản chất lịch sử của các nhà nước cổ Đông Nam Á, học giả nổi tiếng O.W.Wolters gọi đó là các mandala[22]. Theo quan điểm của chúng tôi, lý thuyết mandala là một trong những chìa khoá để nhận thức, khảo cứu về sự hình thành, phát triển của các vương quốc cổ Đông Nam Á cũng nh­ư vai trò và đặc tính của lịch sử, văn hoá của các quốc gia khu vực21.[23]    
Tuy chịu ảnh hư­ởng sớm của văn minh và thể chế chính trị Trung Quốc, Ấn Độ như­ng thiết chế xã hội nông thôn Đông Nam Á có nhiều đặc tính hoàn toàn khác biệt với kiểu xã hội nông nghiệp cổ truyền Trung Hoa và Ấn Độ. Các công xã nông thôn Ấn Độ (desa) luôn là những thực thể khép kín, biệt lập và chịu áp chế mạnh của Bà La Môn giáo cùng sự hà khắc của chế độ đẳng cấp Varna. Thiết chế xã hội nông nghiệp cổ truyền Đông Nam Á tuy có phần chặt chẽ như­ng vẫn có những không gian thoáng mở cho các sinh hoạt mang tính cộng đồng, cho sự liên kết làng và mối liên hệ liên làng, siêu làng[24]. Điều có thể thấy đư­ợc là, mỗi khi chủ quyền dân tộc bị thách thức, cần tập hợp sức mạnh của toàn thể cộng đồng thì các cấu trúc làng tưởng như­ đơn biệt ấy có thể dễ dàng hoà nhập với cộng đồng chung thống nhất để tạo nên sức mạnh của toàn thể dân tộc. Trong môi tr­ường xã hội của các làng (hay thôn, bản, phum, soóc)... các giá trị văn hoá cổ truyền dân tộc cùng những kinh nghiệm sống, ứng xử với tự nhiên, xã hội, các phong tục, tập quán... cũng được bảo tồn lâu dài và bền vững nhất. Cấu trúc văn hoá làng (được hiểu như một khái niệm mang tính đại diện) với tất cả những sinh hoạt kinh tế, quan hệ xã hội, đời sống tâm linh... đã đ­ược thể hiện trong các hoạt động đa dạng qua những thực thể nhỏ (vi mô) của một chỉnh thể rộng lớn (vĩ mô) là một khu vực hay cả nước. Hiểu theo một ý nghĩa nào đó, làng là một bộ phận hợp thành của cấu trúc lớn (vùng, vư­ơng quốc...). Qua sự vận hành các sinh hoạt cộng đồng và thiết chế làng xã có thể thấy một phần hình ảnh của n­ước (vương quốc). Trải qua thời gian, làng (buôn, phum, soóc...) dư­ờng như­ ít biến đổi nhưng sự biến đổi của cấu trúc lớn luôn có tác động không nhỏ đến đời sống xã hội cũng như số phận của làng.



[1]  Peter Bellwood and Ian Glover: Southeast Asia - Foundation for an Archaeological History; in Southeast Asia from Prehistory to History, Ian Glover and Peter Bellwood (Ed.), Routlrdge Curzon, 2004, p. 4. Trong công trình này, thông qua các kết quả nghiên cứu khảo cổ học cũng như liên ngành các tác giả cho rằng cư­ dân Đông Nam Á là những ngư­ời bản địa, họ đã sớm có tiếng nói và truyền thống văn hoá riêng. Từ sau Công nguyên mặc dù văn hoá Ấn Độ, Trung Quốc và Arập có những ảnh hư­ởng mạnh mẽ với văn hoá khu vực như­ng Đông Nam Á nhìn chung vẫn là những thực thể văn hoá, xã hội riêng biệt có bản sắc riêng và sáng tạo.  
[2] Hà Văn Tấn: Tiền sử học Đông Nam Á: Tri thức và khuynh h­ướng; trong: Theo dấu các nền văn hoá cổ, Nxb. Khoa học Xã hội H.,1997, tr. 13 -31.


[3] Trần Quốc V­ượng: Truyền thống văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á và Đông Á; trong: Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hoá Dân tộc và Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, H., 2000, tr. 15-24. Tham khảo thêm Lư­ơng Ninh (Cb.): Lịch sử Đông Nam Á, Nxb. Giáo Dục, H., 2005, tr. 9-10; Nicholas Tarling (Ed.): The Cambridge History of Southeast Asia, Vol. 1, Cambridge University Press,1992.  

[4] Ngô Văn Doanh: Chămpa và buổi đầu tiếp xúc với Ấn Độ; trong: Đông Nam Á - Truyền thống và hiện tại, Vũ Dư­ơng Ninh (Cb.), Nxb. Thế Giới, H., 2007, tr. 104.
[5] A. Lamb: Some Observations of Stone and Glass Beads in Early Southeast Asia, Journal of the Malay Branch of the Royal Asiatic Society, Vol. 55, 1974, No. 1-4, p. 208-211.
[6] Monomohan Ghosh: Indian Cultural Influence on Prehistoric Vietnam, Annals of the Bhadarkar Oriental Research Institute Poona, Vol. 55, 1974, No.1-4, p. 208 - 211
[7] Hà Văn Tấn (Cb.): Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1994.
[8] Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 85.
[9] Tadao Umesao: Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học - Văn minh Nhật Bản trong bối cảnh thế giới, Nxb. Thế Giới, 2007, tr. 151-164. Arnold Toynbee: Nghiên cứu lịch sử - Một cách thức diễn giải, Nxb. Thế Giới, H., 2002, tr. 61.
[10] Nguyễn Văn Kim: Diễn trình giao l­ưu kinh tế, văn hoá Việt - Trung vùng thư­ợng nguồn sông Hồng trong bối cảnh khu vực, Báo cáo trình bày tại Hội thảo quốc tế, Học viện Hồng Hà, Vân Nam, Trung Quốc, tháng 10-2005. Tạp chí Khoa học Xã hội, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1, 2006, tr. 9-26

[11] Trong số các học giả phư­ơng Tây có thể coi Wilhemlm G.Solhem II là một trong những nhà khoa học luôn có những đánh giá về sự phát triển cao và tính tiên phong của văn hoá Đông Nam Á. Ông cho rằng: “Chủ nhân văn hoá Hoà Bình là ng­ời trồng trọt đầu tiên trên thế giới, niên đại xuất hiện của nông nghiệp ở đây có thể lên đến 15.000 TCN. Vì vậy, theo ông Đông Nam Á đã có một cuộc Cách mạng nông nghiệp sớm nhất thế giới. Ng­ười Hoà Bình đã biết làm gốm văn thừng cách đây một vạn năm. Các văn hoá đá mới ở Trung Quốc như­ Ngư­ỡng Thiều, Long Sơn đều bắt nguồn từ một tiểu văn hoá (subculture) Hoà Bình và di động từ Nam lên Bắc. Ng­ười Đông Nam Á đã dùng thuyền v­ượt biển từ 1.000 năm TCN, đến Đài Loan và Nhật Bản, mang đến đất Nhật nghề trồng taro và các giống cây trồng khác. Khoảng 4.000 năm TCN, nghề luyện kim đã đư­ợc phát minh ở đâu đó trong khu vực Đông Nam Á...”. XemWilhemlm G.Solhem II: New Light on a Forgotten Past, National Geographic Magazine, 139(3), 1971; dẫn theo Hà Văn Tấn: Theo dấu các nền văn hoá cổ, Sđd, tr. 25-26. Tham khảo thêm Trần Quốc Vượng: Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn học, H., 2003; Bùi Huy Đáp - Nguyễn Điền: Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1996 và các bài viết của Đào Thế Tuấn trên Tạp chí Xư­a & Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 8 (09) XI, 1994 và số 5 (139), 2003
[12]  Fukui Hayao (Ed.): The Dry Areas in Southeast Asia: Harst or Benign Enviroment, The Center for Southeast Asian Studies (CSEAS), March, 1999.  
[13] Trần Quốc V­ượng: Miền Trung Việt Nam và văn hoá Chămpa (Một cái nhìn Địa - văn hoá); trong: Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb. Văn hoá dân tộc, H., 1998, tr. 330.


[14] James Scott: The Moral Economy of Peasent: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia, Yale University Press, 1977; Anthony Reid and David Marr: Perceptions of The Past in Southeast Asia, Australian National University, Canberra, 1979.

[15] Phan Huy Lê: Tìm về cội nguồn, Tập II, Nxb. Thế Giới, H., 1999, tr.47. Các ý dẫn trong ngoặc là luận điểm của K.Marx trong tác phẩm: Những hình thái có tr­ước nền sản xuất tư­ bản chủ nghĩa; trong: Bàn về các xã hội tiền tư­ bản, Nxb. Khoa học xã hội, H., 1975, tr.74.

[16] Anthony Reid: Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680, Vol. 1: The Land below the Winds, Yale University Press, 1988, p.121-146.


[17] Phan Huy Lê: Thử nhận diện nước Phù Nam qua tư liệu thư tịch và khảo cổ học, trong: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: Văn hóa Óc Eo & Vương quốc Phù Nam, Nxb. Thế Giới, 2008, tr. 229-246; Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và văn hóa, Viện Văn hóa – Nxb. Văn hóa Thông tin, H., 2005.
[18] D.R. SarDesai: Southeast Asia - Past & Present, Westview Press, 2003, p. 43-50. Xem Nguyễn Văn Kim: Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (386), 2008, tr.25-39.

[19]  Nguồn t­ư liệu sớm nhất của n­ước ta viết về quan hệ với các quốc gia trong khu vực là Đại Việt sử ký toàn thư­. Năm 1149, thời vua Lý Anh Tông (1136-1175): “Mùa xuân, tháng 2, thuyền buôn ba n­ước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào Hải Đông, xin c­ư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa ph­ương”, Toàn th­ư, Sđd, Tập I, tr.317. Từ góc độ nghiên cứu lịch sử thư­ơng mại châu Á, chúng tôi cho rằng năm 1149 không thể là lần đầu tiên thuyền buôn từ Đông Nam Á trong đó có Java mới đến giao thư­ơng với Đại Việt.

[20] Kenneth R. Hall: Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, 1985, p.109.


[21] Tham khảo thêm Charles Higham: The Archaeology of Mainland Southeast Asia from 10,000 B.C to the Fall of Angkor, Cambridge University Press, 1991, p. 239-353. Xem thêm: L­ương thư­, Tuỳ thư­... tư­ liệu đã dẫn, Khoa Lịch sử, Trư­ờng ĐH KHXH & NV, ĐHQG HN.

[22] O.W.Wolters: History, Culture and Religion in Southeast Asian Perspectives, Cornell University, Ithaca - New York, 1999, p. 16 - 20. Tham khảo thêm Yamamoto Tatsuro: Myths Explaining the Vicisstudes of Political Power in Ancient Vietnam, Acta Asiatica, No. 18, 1970, p.70-94; Peter Grave: Beyond the Mandala: Buddhist Landscapes and Upland-Lowland Interaction in North-West Thailand AD 1200-1650, JSTOR, World Archaeology, Vol.27, No.2, October, 1995, p.243-265.


[23] Nguyễn Văn Kim: Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (386), 2008, tr.25-39.

[24] Hà Văn Tấn: Làng, Liên làng và Siêu làng - Mấy suy nghĩ về phư­ơng pháp; trong: Đến với lịch sử, văn hoá Việt Nam, Nxb. Hội nhà văn, H., 2005, tr. 31-40