Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

Tết cổ truyền của một số quốc gia Đông Nam Á

Tết cổ truyền của một số quốc gia Đông Nam Á
Các nhà nghiên cứu phong tục tập quán chia khu vực Đông Nam Á thành 4 nhóm quốc gia ăn Tết theo truyền thống. Đó là nhóm ảnh hưởng Trung Quốc (Việt Nam và Singapore); nhóm Hồi giáo (Indonesia và Malaysia); nhóm Tháng tư (Thái Lan, Lào, Campuchia và Myanmar) và nhóm theo dương lịch (Philippines). Mặc dù phong tục mỗi nơi mỗi khác, nhưng tất cả các nghi lễ, phong tục đón năm mới ở các nước đều cầu mong năm mới đem lại may mắn, hạnh phúc và an lành.

Lào
Tết đón năm mới của người Lào có tên là Bunpimay (còn gọi là Tết “Buộc chỉ cổ tay”, hay lễ hội “Hốt Nậm” - Té nước, cầu mong nước về, cho cuộc sống sinh sôi, đâm chồi, nảy lộc). Trong ngày Tết, người Lào rất chú trọng tới việc ăn món lạp, đặc biệt là các doanh nhân. Theo ngôn ngữ của nước này, lạp có nghĩa lộc. Lạp được xem như là linh hồn của người Lào trong năm mới. Người ta có thể đem chúc nhau bằng món lạp. Gia đình nào nhận được nhiều món này thì hy vọng năm mới sẽ có nhiều lộc. Lạp ở đây thường được làm bằng thịt gà hay thịt bò tươi sau đó đem trộn với gia vị. Đặc biệt, món này mà không có thính thì sẽ làm giảm hương vị độc đáo của chúng. Trong mỗi gia đình, đặc biệt là những người làm nghề kinh doanh, món lạp thường được các đầu bếp làm rất công phu, vì nếu món này trong ngày Tết mà không ngon thì họ thường ví năm mới làm ăn có nhiều điềm xui. Trong ngày Tết nước Lào thường có tục biếu vải, biếu khăn cho người già. Ban ngày người ta đến đền chùa cầu nguyện. Vào buổi tối, mọi người tập trung ở chùa để vui chơi, biểu diễn âm nhạc truyền thống (morlam) và múa lam vong. Nếu làng nào đặt tượng Phật trong hang núi thì lễ tắm Phật gọi là Song Namphaphou. Các nhà sư và dân làng ăn trưa ngay tại núi sau khi làm lễ. Đặc biệt, người Lào sử dụng hoa trong ngày tết để cầu may, có hai loại hoa: hoa muồng (bò cạp vàng, hoa hoàng hậu) được người dân cài trên xe, trang trí trong nhà. Còn hoa Champa được người dân kết thành chùm hay cài trên tóc để cầu mong điều phước lành. Vào các buổi chiều, sư trụ trì hướng dẫn các nhà sư, ni cô và dân làng đi hái hoa tươi đem về chùa cúng Phật. Trong khi đi hái hoa người ta chơi trống và các nhạc cụ cổ truyền. Những người khác thì đem nước đến lau rửa hoa.
Campuchia
Trong dịp Tết, các đền chùa Campuchia thường treo cờ ngũ sắc và cờ Phật giáo. Trước khi đón năm mới, mọi nhà đều dựng bàn thờ để đón ông bà tổ tiên, trên bàn thờ thường thắp 5 nén nhang và 5 cây nến. Các gia đình cũng đắp 5 núi cát, có nơi đắp bằng trái cây, các loại bánh hoặc những chẽn lúa... Đêm giao thừa, dân nước bạn tổ chức rước thần Thê-vê-đa cũ đi, mời thần Thê-vê-đa mới về ngự trị. Mồng một làm thức ăn ngon vào chùa dâng Phật và bày cho sư sãi ăn. Các nhà sư phải gắp mỗi phần ăn một miếng để ai cũng được phước như nhau. Ngày mồng hai họ cũng dâng cơm vào chùa, làm lễ đắp 9 ngọn núi và cầu siêu cho những linh hồn siêu thoát. Mồng ba thì làm lễ tắm Phật, sau đó đua thuyền do một sư trưởng dẫn đầu cuộc thi. Ngày Tết ở Campuchia có màn múa Lân – môn truyền thống rất vui nhộn. Ngày tết cuối cùng, người ta căng một sợi dây ngang sông cho người đứng đầu địa phương chặt dây ra lệnh cho nước rút ra biển để dân cày cấy. Ngày đầu năm mới, mọi người trong nhà đều ngồi trước bàn thờ, chắp tay cầu nguyện Trời Phật để xin tận hưởng phúc lộc. Sau đó họ “diện” những bộ quần áo mới chỉnh tề đến viếng chùa, nghe sư đọc kinh cầu nguyện, tưới nước thơm vào tượng Phật, sư sãi. Ở nhà, người Campuchia dâng các loại bánh ngon lên ông bà cha mẹ, để chúc thọ và báo hiếu. Người dân mang hoa tươi, đồ lễ lên chùa nghe giảng kinh từ sáng sớm, rồi thực hiện nghi thức tắm Phật, cắm cờ hoa lên bảo tháp bằng cát và đổ ra đường phố, lấy nước tạt nhau chúc mừng năm mới.
Thái Lan
Tết cổ truyền của đất nước Thái Lan có tên gọi là Songkran được tổ chức từ ngày 13-15/4 hàng năm. Đây là thời điểm người Thái tỏ lòng kính trọng với Đức Phật. Họ dọn dẹp nhà cửa, rũ bỏ những cái cũ, té nước lên nhau bằng xô, súng phun nước, bóng... những người càng được té nhiều nước càng may mắn. Lễ hội này có nét giống Lào và Campuchia, tuy nhiên mỗi nước có nghi thức lễ và hội có vài chi tiết khác nhau. Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhiều cuộc diễu hành, thi sắc đẹp được tổ chức. Ngoài ra, người ta còn nấu các món ăn truyền thống và mặc các trang phục nhiều màu sắc. Tiếp đó là Wan Nao - ngày dành riêng để chuẩn bị đồ ăn trong những ngày lễ sắp tới. Theo tập tục, người dân sẽ tới bờ sông và thi nhau dựng các ngôi chùa bằng cát, mỗi hạt cát sẽ cuốn đi một tội lỗi. Ngày Wan Nao tương tự như ngày 30 của Tết cổ truyền Việt Nam. Wan Payawan là ngày đầu tiên của năm mới. Mở đầu là một số nghi lễ trên chùa vào lúc sáng sớm, người dân sẽ cúng đồ ăn và quần áo. Còn tại nhà, các bức ảnh của Đức Phật sẽ được lau và vẩy nước thơm. Wan Payawan cũng là ngày bắt đầu của lễ hội té nước. Cuối cùng là ngày Wan Parg-bpee - ngày để cầu nguyện, tưởng nhớ người già, tổ tiên và rắc nước thiêng. Songkran là Tết mọi người nghĩ tới người đã khuất nên họ thường chuẩn bị những bữa ăn thịnh soạn để cúng tổ tiên rồi tiếp đó mới vui chơi thỏa thích.
Myanmar     
Tết truyền thống của Myanmar có tên gọi là tết Thingyan trùng vào dịp lễ Phục Sinh của các nước phương Tây. Thingyan là thời điểm của ngày Bố Tát (hay Trai Giới), tương tự như ngày Sabbath (ngày Yên Nghỉ) của đạo Chúa. Của bố thí và các mâm lễ vật được dâng lên các nhà sư trong các nơi thờ tự, và một loại lễ vật gồm dừa non và thân dừa còn nguyên vẹn được kết thành vòng tròn và bó trong lá chuối xanh và các nhánh tha byay hoặc jambul đặt trước các di ảnh của đức Phật Thích Ca; di ảnh này sẽ được đổ nước thơm từ phía trên xuống trong nghi lễ tắm Phật. Trước khi trời tối, những cuộc vui thật sự bắt đầu với âm nhạc, hát múa, các trò hề và các trò bói toán… Những thiếu nữ địa phương đều mặc váy áo sặc sỡ, đầu đội vòng hoa và gắn kim tuyến. Họ bôi lên mặt loại phấn thơm từ vỏ cây Murraya paniculata, có công dụng như là một loại kem chống nắng và se lỗ chân lông, và cài hoa giáng hương có màu vàng rực, mùi thơm ngọt ngào lên tóc. Hoa giáng hương chỉ nở một ngày mỗi năm vào Tết Thingyan nên được gọi là “hoa Thingyan”. Ngày Tân Niên của Tết Thingyan là thời điểm mọi người viếng thăm người lớn tuổi và quỳ lạy để thể hiện lòng tôn kính cũng như dâng nước đựng trong các nồi đất nung và xà phòng thơm. Người nhỏ tuổi sẽ gội đầu cho người lớn tuổi, theo cách thức truyền thống là với hạt và vỏ của cây keo Acacia rugata. Cũng vào ngày này, người Myanmar quyên góp thức ăn ở nhiều nơi, đặc biệt là phát thức ăn miễn phí cho những người tham gia lễ hội năm mới.
Philippines
Tại Philippines, dù Giáng sinh là ngày lễ được chờ đợi nhất trong năm nhưng Tết dương lịch lại là ngày vui nhất, rộn rã và náo nhiệt nhất. Ở nơi đây, Giáng sinh là ngày để mọi người hồi tưởng quá khứ. Còn ngày tết thì có sự khác biệt. Đó là dịp để những người trong gia đình suy ngẫm về những chuyện đã diễn ra trong một năm qua, và cùng hướng về tương lai với những hi vọng tươi sáng. Đối với người Philippines, ngày tết biểu tượng cho sự thay đổi, hi vọng, cơ hội sửa sai và làm những điều tốt đẹp. Cách chào mừng ngày tết của người dân Philippines vừa chịu ảnh hưởng của phương Tây lẫn Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng mang những nét truyền thống đặc trưng. Những ngày giáp tết, hầu hết các gia đình Philippines đều thu dọn nhà cửa, kiểm lại đồ đạc, dẹp bớt những thứ không sử dụng hoặc vô giá trị. Trước đêm giao thừa, các gia đình bắt tay vào chuẩn bị bàn tiệc “Media Noche” để cả gia đình cùng thưởng thức vào đúng nửa đêm. Bàn tiệc thường có trái cây xếp theo hình vòng tròn, biểu thị những đồng tiền xu, với ước vọng đem lại may mắn về tài chính cho gia đình. Món chính thường là pancit (mì sa tế với gà và rau), gà rán, bánh gạo ngọt hoặc bánh pudding, cùng các món ăn truyền thống khác, trên bàn tiệc luôn phải có một chai rượu sâm banh hoặc rượu vang đỏ. Trước khi ăn, mọi người trong gia đình đọc lời cầu nguyện cảm ơn một năm đã qua và đón mừng năm mới. Trong bữa tiệc, các bà nội trợ thường mặc váy có chấm tròn, cũng là biểu hiện của đồng tiền xu. Người lớn sẽ chất đầy tiền xu vào túi trẻ nhỏ. Làm như vậy, họ mong muốn cả năm sẽ không phải lo lắng về chuyện tiền bạc. Sau bữa ăn, tất cả mọi người cùng làm mọi cách để gây ra những tiếng động rộn rã nhất và đốt pháo với niềm tin tiếng động sẽ xua đi ma quỉ. Những đứa trẻ sẽ chơi trò nhảy lên nhảy xuống, vì người Philippines tin rằng làm như vậy sẽ giúp bọn trẻ cao hơn. Những năm gần đây, Chính phủ Philippines hạn chế đốt pháo, do đó nhiều gia đình chỉ ở trong nhà ngắm pháo hoa tỏa sáng trên bầu trời. Trong ngày đầu năm, rất nhiều người Philippines có truyền thống ngồi liệt kê những thói quen xấu mà họ muốn từ bỏ, và đưa ra một bản danh sách những mục tiêu muốn hoàn thành trong năm mới... Mặc dù là quốc gia Đông Nam Á nhưng Philippines chịu ảnh hưởng của châu Âu. Đa số dân Philippines đều theo đạo Công giáo, tin lành nên ngôn ngữ chính của họ là tiếng Anh. Dân Philippines đón Tết cổ truyền từ trước lễ Giáng sinh. Ở vùng nông thôn, người Philippines leo lên các ngọn núi cao để cầu phúc kéo dài trong 9 ngày và chỉ chấm dứt vào ngày Noel. Trẻ con Philippines vào ngày Tết cũng được mặc quần áo mới, người lớn thì ca hát, ăn nhậu. Mỗi khu phố, bản làng đều có những cuộc chơi tập thể. Vùng quê đám thanh niên đeo mặt nạ giả thần núi nhảy múa chung với cả làng để cầu phúc, cầu may, cầu mùa màng bội thu và một năm mới tốt lành.
Indonesia
Indonesia là một quốc gia có nhiều tôn giáo và sắc tộc, do đó cách chào đón tết cũng rất đa dạng và khác biệt. Đó là tết của người Hồi giáo (Tahun Baru Hijriah), tết của người Hindu tại đảo Bali (Tahun Baru Saka) và tết cổ truyền theo kiểu Trung Quốc (Tahun Baru Imlek). Thông thường, nói chung các thành phố lớn đều bắn pháo hoa đón mừng năm mới. Thanh thiếu niên trên xe máy hoặc ôtô đổ ra đường đi diễu hành xung quanh thành phố, thổi kèn, đánh trống rất rộn rã. Những sân khấu ngoài trời mở cửa với hàng loạt hoạt động nghệ thuật như hát, nhảy, múa rối... Tết truyền thống của người Hồi giáo Indonesia được gọi là Tết Hijriah hoặc Hijra. Trong năm 2007, ngày lễ tết này rơi vào 20. Vào đêm Hijra, người dân tại Indonesia thường đến nhà thờ Hồi giáo nghe các giáo sĩ giảng đạo, đọc và lắng nghe kinh Koran, nghe những bài hát đạo Hồi. Một số tổ chức Hồi giáo mở cửa các chợ, cung cấp thực phẩm, tiền, dịch vụ y tế miễn phí cho dân nghèo, đặc biệt là người già và trẻ em. Nói chung, ngày lễ tết của người dân Indonesia theo đạo Hồi khá trầm lắng chứ không sôi động như ngày kết thúc tháng Ramadan. Khi đó, mọi người thường xin lỗi lẫn nhau vì những va chạm trong quá khứ và đi thăm cha mẹ. Phần lớn người theo đạo Hindu tại Indonesia sống tại đảo Bali, hòn đảo du lịch nổi tiếng. Ngày tết ở đây còn được gọi là Nyepi, được tổ chức vào ngày 19-3-2007. Ngày bắt đầu năm mới tại Bali vô cùng náo nhiệt và rộn rã. Tất cả dân làng cùng tập trung ở một khu vực để ăn mừng. Thức ăn được chuẩn bị trong hai ngày để phục vụ số lượng người tham gia đông đảo. Năm 2000, tết âm lịch Trung Quốc, hay còn được gọi là Imlek, chính thức được công nhận là ngày lễ quốc gia tại Indonesia. Trong những ngày này, múa lân trở thành hoạt động thường nhật tại nhiều thành phố, đặc biệt là các trung tâm mua sắm. Đối với người dân Indonesia, chứng kiến múa lân là một hoạt động vô cùng thú vị. Vào dịp Tết Imlek, các cuộc thi thể thao, biểu diễn thời trang liên tục diễn ra. Các khu chợ cung cấp thực phẩm, tiền cho người nghèo. Nhiều cửa hàng, trung tâm mua sắm tràn ngập màu đỏ và hình trang trí kiểu Trung Quốc. Những người gốc Trung Quốc tại Indonesia cũng hay có thói quen gửi thiếp mừng năm mới tặng bạn bè và người thân.
 Đoàn Gia - Bản tin số 250-251

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘC NGƯỜI & DÂN TỘC Ở VIỆT NAM


MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘC NGƯỜI & DÂN TỘC Ở VIỆT NAM

                                                                                                TRẦN BÌNH - Đại học Văn hóa Hà Nội                               

Tóm tắt: Để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu về các dân tộc, văn hóa các dân tộc, trước tiên phải nắm chắc những vấn đề then chốt  trong hệ thống lý thuyết tộc người và bắt buộc phải phân loại được các tộc người/dân tộc. Khâu then chốt này vừa là mục tiêu, nhiệm vụ, lại vừa là cơ sở, nền tảng quyết định đến sự thành công của nhà nghiên cứu.  
Dân tộc học là khoa học nghiên cứu về các cộng đồng tộc người. Nếu Dân tộc học Âu - Mỹ xưa kia chỉ nghiên cứu các dân tộc lạc hậu (ở thuộc địa), thì Dân tộc học Mác - xít lại nghiên cứu tất cả các cộng đồng tộc người, không phân biệt dân tộc lạc hậu hay đã phát triển, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là nghiên cứu văn hóa các dân tộc. Để thực hiện tốt nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu, trước tiên Dân tộc học phải giải quyết những vấn đề về lý thuyết tộc người và bắt buộc phải phân loại được các tộc người. Khâu then chốt này vừa là mục tiêu, nhiệm vụ, lại vừa là cơ sở, nền tảng quyết định đến sự thành bại của Dân tộc học.
Vậy những vấn đề cơ bản về lý thuyết tộc người và phân loại tộc người là gì. Quan điểm của các nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau về những vấn đề này như thế nào. Ở Việt Nam lý thuyết tộc người và phân loại tộc người đã và đang diễn ra như thế nào; thế nào là một dân tộc, thế nào là một tộc người; văn hóa tộc người là gì, văn hóa dân tộc là gì,... Những vấn đề nêu trên đã tác động như thế nào đến thực tiễn công tác dân tộc, xác định thành phần dân tộc và nghiên cứu văn hóa các dân tộc.Dưới đây là một vài bàn luận nhỏ về những câu hỏi nêu trên.
1. Dân tộc và Tộc người
Thực tiễn ở Việt nam cho thấy, các khái niệm dân tộc và tộc người đều đã, đang và sẽ đồng thời tồn tại. Khái niệm dân tộc được dùng để chỉ Dân tộc Việt Nam (tất cả những người là công dân Việt Nam, sinh sống trên đất Việt Nam và Việt kiều ở nước ngoài). Tuy thế, dân tộccũng được dùng để chỉ các cộng đồng tộc người cụ thể như dân tộc Chăm, dân tộc Tày, dân tộc Việt (Kinh), dân tộc Mảng, dân tộc Sán Dìu,…Như vậy trong thực tiễn Việt Nam, dân tộc có hai nội hàm: chỉ dân tộc ở cấp độ quốc gia - Nation (Dân tộc Việt Nam); chỉ cộng đồng tộc người cụ thể - Ethnic/Ethnie (Dân tộc Chăm,…). Để hiểu rõ các khái niệm trên, buộc phải xem xét khái niệm chỉ các loại hình cộng đồng người trong lịch sử cũng như các khái niệm dân tộc(Nation) và tộc người (Ethnie/Ethnic).
Các kết quả nghiên cứu của Sử học, Khảo cổ học, Ngôn ngữ học, Xã hội học, Dân tộc học,... cho thấy, từ khi hình thành, nhân loại đã từng trải qua các hình thái cộng đồng như sau:
* Bộ lạc (xã hội Nguyên thuỷ), gồm hai loại hình: Bộ lạc giai đoạn sớm (Loại hình cộng đồng người cổ nhất của những con người hiện đại, hình thành từ các bào tộc (cũng có thể là từ bầy người nguyên thủy) thông qua sự tự phân chia; các đặc trưng văn hoá, tổ chức xã hội cơ bản là trùng khớp nhau; có tên gọi riêng, truyền thuyết về nguồn gốc riêng, lãnh thổ riêng, cung cách sinh sống riêng; các bộ lạc cùng liên minh thường ít có sự cách biệt về ngôn ngữ (thổ ngữ), đặc trưng văn hoá, kinh tế và xã hội,...); Bộ lạc giai đoạn muộn (là tiền thân của các cộng đồng người của xã hội có giai cấp; đã hình thành các tổ chức tiền thân của bộ máy hành chính; đã hình thành các liên minh bộ lạc, hội đồng liên minh các thủ lĩnh quân sự; ...).
* Bộ tộc (các xã hội có giai cấp tiền Tư bản). Đó là cộng đồng gồm những người có mối liên hệ về văn hoá, kinh tế, lãnh thổ, láng giềng. Bộ tộc bao gồm bộ phận thống trị xã hội và bộ phận bị trị (phụ thuộc), tức là, đã có sự phân biệt rõ ràng về địa vị kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Bộ tộc có phải là loại hình cộng đồng người của thời kỳ xã hội có giai cấp tiền Tư bản hay không? Dân tộc học Xô Viết trước đây và Dân tộc học Việt Nam thừa nhận: Bộ tộc chiếm nô là loại hình cộng đồng người thuộc xã hội Chiếm hữu nô lệ; Bộ tộc phong kiến là loại hình cộng đồng người thuộc xã hội Quân chủ chuyên chế.
Bộ tộc Chiếm nô, chủ yếu gồm những người sinh sống bằng nông nghiệp trồng trọt, gồm: chủ nô, các thành viên tự do và nô lệ. Ở giai đoạn Chiếm nô muộn, nô lệ được cấp công cụ sản xuất, được trả tự do, cho phép kết hôn và lập gia đình…(ví như ở La Mã cố đại).
Bộ tộc phong kiến, chủ yếu gồm nông nô và thị dân; tầng lớp thống trị như địa chủ (cả phú ông…) có xu hướng thoát ly khỏi cộng đồng của những người lao động, và nó đứng ngoài thành phần của bộ tộc. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là sự cát cứ phong kiến, dẫn đến sự hình thành nhiều thể chế khác nhau (các tổ chức Nhà nước sơ khai: Mường ở Việt Nam, các công quốc ở Châu Âu,...). Tuy vậy ý thức liên minh về văn hoá, kinh tế, chính trị và cộng đồng người trong một vùng lãnh thổ lớn hơn vẫn được duy trì.
* Dân tộc (xã hội Tư bản và xã hội Xã hội chủ nghĩa), gồm Minority Ethnic groupe và Etat Ethnic/Nation - Loại hình cộng đồng người của xã hội hiện đại. Cở sở của sự hình thành loại hình cộng đồng Dân tộc bao gồm: mối quan hệ kinh tế, mối liên hệ văn hoá, mối liên hệ ngôn ngữ, mối liên hệ lãnh thổ, mối liên hệ ý thức tự giác tộc người, rất chặt chẽ trong nôi bộ cộng đồng. Như vậy, Dân tộc là cộng đồng thống nhất bền vững về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, văn hoá và ý thức tộc người.
Mỗi dân tộc có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau; song song và đồng hành bên cạnh dân tộc, là các loại hình cộng đồng người tiền dân tộc (bộ tộc, bộ lạc,..). Thường thì các loại hình tiền dân tộc này tồn tại ở các khu vực, các quốc gia có trình độ kinh tế – xã hội kém phát triển hơn. Trong các xã hội hiện đại, các cộng đồng dân tộc mới vẫn có thể đang trong quá trình hình thành. Đó là quá trình tộc người ở xã hội hiện đại.
Dân tộc (Etat Ethnic/Nation) là gì
Ở Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc, Cu Ba và Việt Nam,... đã từng tồn tại trong thời gian khá dài, cách hiểu về Dân tộc tư bản chủ nghĩa của J.V. Stalin: Dân tộc là khối cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và về hình thành tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng về văn hóa (1).Gần đây, do nhiều biến cố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... khái niệm dân tộc  đã được hiểu như sau:
Thuật ngữ Dân tộc (Nation) xuất hiện, bắt nguồn từ tiếng Latinh: Natio là cộng đồng người có chung một thể chế chính trị, được thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, được điều khiển bởi một nhà nước (Nation - Etat). Cũng có thể hiểu đó là một cộng đồng nhân dân (people) ổn định được phát triển trong lịch sử, với một lãnh thổ riêng, với một nền kinh tế thống nhất, với các đặc trưng văn hóa thống nhất, cùng có tiếng mẹ đẻ thống nhất và được chỉ đạo bởi một nhà nước (Quan điểm này đã được đại đa số tán đồng, kể cả Liên hợp quốc).
Thực tế, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác (trước J.V. Stalin) cũng tán đồng quan điểm trên khi cho rằng, có dân tộc Tư bản chủ nghĩa, đồng thời có dân tộc Tiền Tư bản chủ nghĩa. Như vậy, theo các nhà Mác - xít, Dân tộc là một cộng đồng người hình thành từ các bộ lạc, mà liên minh bộ lạc là bước khởi đầu. Dân tộc ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước. Theo đó, rõ ràng có nhiều loại dân tộc: dân tộc Chiếm nô, dân tộc Phong kiến, dân tộc Tư bản, dân tộc Xã hội chủ nghĩa,…
Trong giới khoa học, đã từng tồn tại nhiều ý kiến cho rằng, dân tộc hình thành từ thời Chiếm nô hoặc Phong kiến (các xã hội có giai cấp Tiền Tư bản). Ở Việt Nam, sau năm 1954, dựa theo định nghĩa Dân tộc của J.V. Stalin, thảo luận về sự hình thành Dân tộc Việt Nam được khởi đầu từ 1955 và kéo dài suốt hàng chục năm (đến 1965). Các quan điểm đều xoay quanh vấn đề: ở Việt Nam, khi nào cộng đồng dân tộc hình thành; dân tộc Việt Nam có phải là một cộng đồng tộc người thuộc loại hình dân tộc hay không? Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: dân tộc ở Việt Nam hình thành từ thời kỳ Hùng Vương, tức là nó hình thành ngay từ trong xã hội Chiếm nô (trước xã hội Phong kiến). Về việc dân tộc Việt Nam có phải là một cộng đồng tộc người thuộc loại hình dân tộc hay không, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đó là loại hình cộng đồng người thuộc Etat Ethnic/Nation. Theo cách hiểu này, Dân tộc ngoài các yếu tố cấu thànhngôn ngữ, văn hoá, tự giác tộc người,… còn bao hàm cả các yếu tố chính trị, thể chế. Khái niệmdân tộc, trong trường hợp này còn bao gồm cả các yếu tố: cộng đồng chính trị, thể chế xã hội.
Như vậy, Dân tộc Việt Nam (Etat Ethnic/Nation) bao gồm nhiều tộc người khác nhau liên kết lại, hay nói cho đúng hơn, Dân tộc Việt Nam là khối cộng đồng quốc gia bao gồm nhiều dân tộc/tộc người (Minority Ethnic groupe ) hợp lại. Cần chú ý thêm, vào những năm trước 1975 ở miền Nam Việt Nam đã từng tồn tại khái niệm Sắc tộc. Vậy sắc tộc là gì. Trước tiên phải khẳng định thuật ngữ này chỉ tồn tại dười thời chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam. Khi đó nó được dùng để chỉ các dân tộc thiểu số ở khu vực Trường Sơn -Tây Nguyên là chính (2).  
Tộc người (Ethnie/Ethnic) là gì
Thuật ngữ tộc người xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIX, ban đầu nó được dùng để chỉ các nhóm tộc người (groupe ethnie), hay đơn vị tộc người (unité Ethnie). Trong Dân tộc học, khi đó Ethnie tương ứng như ethnic, ethnos, ethikum, ethnea,… Cho đến khoảng những năm Sáu mươi của thế kỷ XX, thuật ngữ Ethnie mới được sử dụng rộng rãi, kể cả ở Liên Xô (Hiến pháp Liên Xô 1977 dùng Ethnos thay cho bộ tộc, bộ lạc,…).  Tuy vậy, trong thực tiễn cũng như khoa học Nation  Ethnie/Ethnic không thể là một, mà đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Trong khi Dân tộc (Nation) phải là một cộng đồng chính trị, bao gồm cư dân của một quốc gia có chung một nhà nước, một chính phủ, có luật pháp thống nhất,…thì Tộc người(Ethnic/Ethnielà cộng đồng mang tính tộc người, không nhất thiết phải cư trú trên một cùng lãnh thổ, có chung một nhà nước, dưới sự quản lý điều hành của một chính phủ với những đạo luật chung thống nhất.
Mặc dù các trường phái Dân tộc học có nhiều quan điểm khác nhau về tộc người, xong tất cả đều thống nhất: Tộc người chỉ các cộng đồng mang tính tộc người bất kỳ, kể cả các cộng đồng tộc người chủ thể của các quốc gia, và các cộng đồng tộc người thiểu số trong các quốc gia, vùng miền, không phân biệt đó là cộng đồng tộc người tiến bộ, hay cộng đồng tộc người còn đang trong quá tình phát triển.
Với nhận thức trên, trong thế giới hiện đại của chúng ta ngày nay, đang tồn tại các loại hình cộng đồng dân tộc và cộng đồng tộc người,...(3)Trên thế giới, đa số các quốc gia đều làQuốc gia đa dân tộc, tức là cộng đồng cư dân ở đó gồm nhiều tộc người. Trong những trường hợp này, khái niệm dân tộc và tộc người trùng khớp nhauTuy vậy cũng có quốc gia chỉ có một tộc người (Triều Tiên,…), trong trường hợp này dân tộc được hiểu là tộc người cũng không sai.
2. Tiêu chí xác định dân tộc (tộc người)
Để hiểu hơn về tộc người và dân tộc, có thể xem xét các tiêu chí khác đã được sử dụng để xác định  đã được sử dụng trên thế giới và Việt Nam. Thế giới nói chung, đã từng tồn tại việc sử dụng 5 tiêu chí để xác định dân tộc: cùng  tiếng mẹ đẻ (có ngôn ngữ tộc người thống nhất); cùng một khu vực lãnh thổ (có lãnh thổ tộc người thống nhất); có nền kinh tế tộc người thống nhất; có các đặc trưng văn hoá thống nhất/văn hoá tộc người; có Ý thức tự giác tộc người thống nhất.
Các nhà Dân tộc học Xô Viết đã dùng bốn tiêu chí để xác định thành phần dân tộc ở Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết: 1. Cùng cư trú trên một phạm vi lãnh thổ nhất định; 2. Cùng nói một ngôn ngữ3. Có chung các đặc điểm văn hóa4. Có cùng ý thức dân tộc hay là tự giác dân tộc.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc rất chú trọng đến vấn đề nguồn gốc và lịch sử của dân tộc trong xác định thành phần dân tộc ở đất nước của mình. Từ những năm cuối thập kỷ năm mươi của thế kỷ XX, các nhà khoa học Trung Quốc đã xác định ở nước này có 56 dân tộc, từ đó đến nay không có gì thay đổi. Trong một thời gian dài, các nhà khoa học Trung Quốc vẫn kiên trì theo định nghĩa dân tộc của J. V. Stalin: Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử có chung ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế, cùng chung một tố chất tâm lý biểu hiện trong cùng một văn hóa. Trong đó có hai vấn đề tiên quyết: 1. Dân tộc là một phạm trù lịch sử của thời đại Tư bản chủ nghĩa đang lên, trước Chủ nghĩa Tư bản không thể có dân tộc; 2. Thiếu một trong 4 yếu tố (lịch sử, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý)  trên cũng không thể xác định đó là một dân tộc.
Ở Việt Nam, tiêu chí xác định dân tộc bắt đầu được đề cập từ 1960.  Năm 1973 tại Hà Nội đã tiến hành hai cuộc Hội thảo khoa học (vào tháng 6 và tháng 11). Các hội thảo đã thống nhất lấy dân tộc (tộc người) làm đơn vị cơ bản trong xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam. Ba tiêu chí để xác định dân tộc/tộc người, được thống nhất sử dụng:
(1). Có chung tiếng nói (ngôn ngữ mẹ đẻ)
(2). Có chung những đặc điểm sinh hoạt văn hóa (đặc trưng văn hóa)
(3). Có cùng ý thức tự giác, tự nhận cùng một dân tộc
Với các tiêu chí này, thành phần dân tộc ở Việt Nam khi đó được xác định bao gồm 59 dân tộc. Trong đó ở miền Bắc có 36 dân tộc và ở miền Nam có 23 dân tộc. Bảng danh mục này đã được đăng trong Các dân tộc ít người ở Việt Nam, các tỉnh phía Bắc (NXB. KHXH, Hà Nội, 1978) và đăng trong tạp chí Dân tộc học, số 1/ 1974.
Nhằm phục vụ Tổng điều tra dân số cả nước 1979, vào tháng 12/1978 bảng danh mục 54 dân tộc trong cả nước được Ủy ban KHXH Việt Nam và Hội đồng Dân tộc trình Chính Phủ. Danh mục này được công nhận và sử dụng từ đó đến nay. Theo danh mục này, các dân tộc Giẻ, Ve, Triêng (kết hợp làm một), Hà lăng (nhập vào Xơ đăng), Xrê (nhập vào Cơ ho), Pú nà (nhập vàoGiáy), Thủy (nhập vào Pà thẻn), Tống (nhập vào Dao), Chăm hroi (nhập vào Chăm). Trong khi đó, tách Ngái ra khỏi Hoa, thành hai dân tộc là Hoa và Ngái, thêm 3 dân tộc mới là Chơ ro, Brâuvà Rơ măm, đồng thời xác định lại một số tên gọi của các dân tộc: Pa cô thành Tà Ôi, Ca tuthành Cơ tu, Cao lan - Sán chỉ thành Sán chay, Mèo thành Hmông(3).
3. Một vài nhận xét
Tộc người và dân tộc là hai khái niệm khác nhau, với thực tế Việt Nam nhiều khi nó được dùng chung cho các khái niệm khác nhau: Cộng đồng người Việt Nam (Dân tộc Việt Nam); hoặc cộng đồng tộc người chỉ là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam (Dân tộc Kinh, Dân tộc Ba na, Dân tộc Tày, Dân tộc Chăm,…). Vì thế phải xác định rõ nội hàm của thuật ngữ Dân tộc trong các trường hợp cụ thể. Việc xác định rõ nội hàm của thuật ngữ này sẽ là điều kiện tiên quyết khi xem xét những vấn đề lý luận và thực tiễn của Công tác dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Với các tiêu chí xác định và danh mục các dân tộc đã được công bố, có thể thấy: 1- Mặc dù chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nền dân tộc học Xô Viết và Trung Quốc, nhưng chúng ta đã không dùng các tiêu chí không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam để xác định thành phần các dân tộc (lãnh thổ, nguồn gốc, dân số). 2- Cho đến nay, danh mục các dân tộc ở Việt Nam đã được công bố vào năm 1979, là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, khách quan, và chính xác, nên nó hoàn toàn phù hợp với việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, mặc dù, vẫn còn một vài nhóm địa phương cần được xem xét lại. 
Không chỉ trong xã hội truyền thống mà ngay cả trong xã hội hiện đại, quá trình tộc người vẫn liên tục diễn ra, dưới sự tác động của các điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội,… nhất định. Ở Việt Nam (cũng như trên Thế giới), thông qua tiếp xúc tộc người về mọi phương diện, văn hóa của các tộc người bị biến đổi. Sự biến đổi ấy có thể làm cho văn hóa các tộc người phát triển phong phú thêm, nhưng cũng có thể bị mai một. Các hiện tượng trên đã dẫn đến các xu hướng phát triển tộc người, biến đổi văn hóa tộc người ở nước ta hiện nay như sau:
- Hòa hợp tộc người và  văn hóa
- Bảo lưu, duy trì văn hoá truyền thống và cố kết tộc người
- Mai một văn hoá, mất bản sắc văn hóa tộc người.
Ngay từ khi ra đời, Dân tộc học Việt Nam đã góp phần tích cực vào việc làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn tộc người, thành phần dân tộc và nghiên cứu văn hóa các dân tộc ở nước ta. Bằng chứng cụ thể là việc xác định và lập danh mục thành phần dân tộc ở Việt Nam qua các thời điểm cụ thể; cung cấp các luận chứng khoa học cho việc xây dựng và triển khai các chính sách dân tộc, chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc, ở các giai đoạn cụ thể. Thực tiễn cho thấy, tộc người, dân tộc là các khái niệm có tính lịch sử, bởi thế mỗi giai đoạn cụ thể có thể nó sẽ được nhận thức khác nhau đôi chút. Vì thế, danh mục thành phần dân tộc ở Việt Nam ở từng giai đoạn cũng có thể có những điều chỉnh. Nhưng rõ ràng, nó đang được nhận thức ngày càng toàn diện, đầy đủ và chính xác.   
T.B
Chú thích:
1. J.V. Stalin, Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, NXB. Sự thật, Hà Nội, 1957
2. Tài liệu số 3, tr.32-33.
3. Tài liệu số 8, tr. 35
4. Tài liệu số 5.

Tài liệu tham khảo:

1.      Iu. V. Bromley (1973), Tộc người và Dân tộc học, Maxcơva,  (Bản dịch tiếng Việt, TLTV Viện Dân tộc học).
2.      S.I. Bruc (1962), Các quá trình phát triển tộc người và những phân loại tộc người (trong Dân số và phân bố dân tộc trên thế giới), NXB.Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Maxcơva,  (Bản dịch tiếng Việt, TLTV Viện Dân tộc học).
3.      Phan Hữu Dật (và các tác giả) (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4.      Phan Hữu Dật (1972), Cơ sở Dân tộc học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
5.      Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
6.      Mạc Đường (1997), Dân tộc học và vấn đề xác định thành phần dân tộc (lý thuyết - nghiên cứu - tư liệu),NXB. KHXH, Hà Nội.
7.      Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB. TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

NGUỒN GỐC CÁC DÂN TỘC Ở ĐÔNG NAM Á

NGUỒN GỐC CÁC DÂN TỘC Ở ĐÔNG NAM ÁNguyễn Đức Hiệp


Nhà nghiên cứu Peter Bellwood và nhà khảo cổ học lão thành Wilhelm Solheim trong nhiều năm qua có ý kiến và giả thuyết khác nhau và nhiều lúc trái ngược nhau về nguồn gốc của người Austronesian ở Đông Nam Á. Peter Bellwood với thuyết nổi tiếng “Tàu tốc hành” (express train) cho rằng người Austronesian ở các đảo Đông Nam Á và người Lapita, tổ tiên Polynesian, thiên cư đi các đảo ở Thái Bình Dương bắt nguồn từ Đài Loan, đất tổ của người Austronesian. Họ đã rời Đài Loan và phát tán trong một thời gian ngắn, định cư mang theo văn minh nông nghiệp ở các hải đảo Đông Nam Á và trên địa bàn người Melanesian. Wilhelm Solheim thì trái ngược, ông cho rằng người Austronesian đã có từ lâu ở quần đảo Phi Luật Tân, Indonesia và qua văn minh dựa vào hàng hải, họ đã phát tán đi đến lục địa Đông Nam Á (Việt Nam, Mã Lai), Đài Loan, bờ biển nam Trung Hoa, các đảo nam Nhật Bản, Thái Bình Dương và tận Madagascar 


Những dữ kiện và khám phá mới gần đây cho chúng ta rõ hơn về những câu hỏi quan trọng khó trả lời chính xác mà vì thế nhiều nhà khoa học đã đặt ra các giả thuyết để giải thích về nguồn gốc con người và các giống dân ở Đông Nam Á dựa vào ba cơ bản chính: ngôn ngữ, khảo cổ và di truyền. Khuynh hướng hiện nay là tổng hợp những kiến thức của ba ngành để tìm hiểu về con người ở Đông Nam Á. Tuy vậy các nhà khoa học trong mỗi ngành mặc dầu đồng ý chung về khuynh hướng liên ngành này nhưng các giả thuyết và đặt vấn đề vẫn còn cục bộ và dựa vào cách nhìn và truyền thống của ngành. Không lạ gì khi ta thấy các nhà ngôn ngữ như P. Bellwood, R. Blust chủ yếu dựa vào ngôn ngữ khi đưa ra thuyết “Tàu tốc hành” trong khi Solheim là nhà nhân chủng học lại chú trọng nhiều đến khía cạnh nhân chủng, văn hóa trong thuyết “Tàu chậm” về nguồn gốc người Polynesia ở Thái Bình Dương.


Tổng quan về người tiền sử ở Đông Nam Á và vùng phụ cận

Đứng về phương diện chủng tộc, ngôn ngữ ở Đông nam Á sau khi con người hiện đại đi đến từ Đông Phi thì giống người Australoid mà hiện các bộ lạc còn sót lại sống biệt lập trong rừng săn bắt và hái lượm từ Nepal, bắc Ấn, đảo Andeman và Nicobar ở Ấn Độ Dương, bán đảo Mã Lai, Phi Luật tân, Papua Guinea, Solomon và các đảo khác ở tây Thái Bình Dương đến Australia nói ngôn ngữ thuộc họ Indo-Pacific. Kế đó là người cũng cổ đại không kém nói ngôn ngữ Môn-Khmer thuộc hệ Austroasiatic ở trong lục địa từ Ấn Độ, đảo Andaman và Nicobar ở Ấn Độ Dương, Miến Điện đến Cambodia và Việt Nam ở Đông Nam Á. Và sau cùng là người nói ngôn ngữ Malayo-Polynesian thuộc hệ Austronesian đa số ở bán đảo Mã Lai, trung Việt Nam, Đài Loan, Madagascar, các quần đảo Indonesia, Phi Luật Tân và các đảoThái Bình Dương. 

Trong các giống người trên ở Đông Nam Á thì nguồn gốc của người Austronesian là có nhiều khúc mắc hơn cả. Câu hỏi chính là nguồn gốc và đất tổ của người Austronesian là đâu và sự định cư của người Polynesian ở Thái Bình Dương đã tiến hành thế nào và từ đâu. Bài này chủ yếu tập trung vào nguồn gốc người Austronesian.

Trước hết chúng ta chú ý vào khám phá gần đây về người Kusunda (hay Ban Rajas) và ngôn ngữ Kusunda ở trong rừng hẻo lánh vùng Nepal, bắc Ấn, nơi con người từ Phi châu đến và từ đó vào Đông Nam Á và sau đó đến Australia. Người Kusunda được biết vào đầu thế kỷ 19 khi ông Hodson mô tả họ. Họ sống trong rừng (được gọi là vua của rừng). Ngôn ngữ Kusunda được xếp vào họ Indo-Pacific và gần với ngôn ngữ Andamanese của người thổ dân trên đảo Andaman, Ấn Độ Dương, ngôn ngữ ở đảo New Guinea, các đảo chung quanh ở Thái Bình Dương và đảo Tasmania (Australia). Nghiên cứu di truyền về người Andaman cho thấy họ thuộc mtDNA haplogroup M là nhóm cư dân đầu đi khỏi Phi châu trước khi đến Đông nam Á, New Guinea và Australia. Người Kusunda, hiện nay chỉ còn hơn 100 người, vì thế được coi như người cổ nhất còn lại trên lục địa Á châu sau khi đi từ Phi châu đến các đảo ở Đông Nam Á và Thái Bình dương. 

Từ Đông bắc Ấn và Miến Điện, tổ tiên người Kusunda đi đến Đông Nam Á và từ đó phát tán xuống Úc châu và đến Đông Á. Gần đây nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ, khảo cổ đã dùng kỹ thuật di truyền để tìm hiểu về nguồn gốc và sự thiên cư của người Austronesian (gồm giống dân Polynesian) đến các đảo ở Thái Bình Dương và đến tận Madagascar gần Phi châu. Câu hỏi được đặt ra là người Austronesian ở bán đảo Mã Lai, Đông Nam Á hải đảo có liên hệ thế nào với các sắc dân ở Đông Nam Á lục địa và nam Trung quốc và có phải họ từ lục địa đến hay đã có mặt ở Đông Nam Á hải đảo từ khi tổ tiên người Kusunda từ Phi châu đã đến định cư nơi này?.


Nam Trung quốc - sự liên hệ giữa chủng Nam Mongoloid và Bắc Mongoloid 

Sau công trình nghiên cứu của Chu (10) qua mtDNA về các dân tộc ở Trung Quốc là các công trình nghiên cứu di truyền qua nhiểm sắc thể Y DNA của Hui Li et al (9) và Hong Shi et al (8). Kết quả của Hong Shi cho thấy giống như kết quả của nhóm ông Chu là ở O3-M122 haplogroup trên nhiểm sắc thể Y của người nam Trung quốc đa dạng hơn của người phía bắc sông Dương Tử và vì thế nguồn gốc của đột biến O3-M122 là ở phương nam và sự di cư từ phương Nam lên phía bắc qua haplogroup này được ước đoán xảy ra cách đây khoảng 25,000 đến 35,000 năm, phù hợp với các di chỉ con người đã tìm được ở Đông Á.

Như vậy qua kết quả trên về phương diện nhân chủng học chủng nam Mongoloid gần với chủng cổ Australoid và có trước chủng bắc Mongoloid chứ không phải chủng nam Mongoloid sinh ra từ sự hòa hợp giữa chủng bắc Mongoloid di xuống nam với chủng Australoid. Nguồn gốc chủng nam Mongoloid là do sự đột biến tách khỏi chủng Australoid có thể xảy ra ở vùng Đông Nam Á, Nam Trung quốc hay Tây Tạng.

Trong một nghiên cứu mới đây về sự liên hệ di truyền DNA của các người cổ xưa ở các di chỉ khảo cổ dọc sông Dương Tử gồm 56 xương người cổ qua DNA nhiểm sắc thể (chromosome) Y cho thấy (9) hơn 62.5% các mẫu thuộc haplogroup O tương tự như người hiện nay trong vùng. Ở các di chỉ thuộc văn hóa Lương Châu (Liangzhu) chung quanh cửa sông Dương tử thì tần số Haplogroup O1 rất cao mà người Austronesian và Daic thường có. Trong khi ở di chỉ Daxi khoảng giữa sông Dương Tử thì nhóm haplogroup O3d hiếm thấy lại nổi trội mà chỉ người Hmong-Mien hiện nay là có nhóm O3d này. Chứng tỏ chủ nhân di chỉ văn hóa Daxi là thủy tổ của người Hmong-Mien hiện nay. Nghiên cứu di truyền này cho thấy các di chỉ văn hoá thời tiền sử dọc sông Dương Tử là các nền văn hóa là rất đa dạng do các giống người "Bách Việt" khác nhau ở phía nam sông Dương Tử tạo ra và là chủ nhân trước khi người Hán hoa bắc đi xuống.

Gần đây, Friedlaender và đồng nghiệp (3) đã nghiên cứu và công bố trên tạp chí Public Library of Sciences (PLOS) về sự liên hệ di truyền của cácdân hải đảo Polynesia, Đài Loan và Nam Trung quốc. Nghiên cứu di truyền này dựa vào autosomal DNA (truyền từ cha và mẹ) chứ không dùng mtDNA (truyền từ mẹ) hay nhiểm sắc thể Y DNA (truyền từ cha). Kết quả cho thấy là có khả năng là người Polynesia bắt nguồn từ dọc bờ biển Nam Trung quốc qua Đài Loan, Phi Luật Tân và sau đó đi đến các đảo ở Thái Bình Dương. Kết quả của Friedlaender đã gây phấn khởi cho một số các nhà ngôn ngữ và khoa học theo thuyết từ Đài Loan đến Thái Bình Dương vì đây là kết quả nghiên cứu di truyền đầu tiên chứng minh thuyết này.


Thuyết về nguồn gốc người Austronesian 

Có ba thuyết hiện nay về nguồn gốc người Polynesian: “Entangled” (cuộn rễ), “Express train” (tàu tốc hành) và “Slow boat” (tàu chậm).

Thuyết “cuộn rễ” (Entangled): Một số nhà ngôn ngữ cho rằng người Polynesian bắt nguồn từ Đông Nam Á hải đảo đến Melanesia (Papua, Hebrides..) và trộn lẫn với nhóm Melanesia trước khi đi về phía đông Thái Bình Dương.

Thuyết “tàu tốc hành” (Express train): Peter Bellwood, Robert Blust, Jared Diamond cho rằng người Polynesia bắt nguồn từ Đài Loan đi rất nhanh qua Đông Nam Á hải đảo và đến đông Pacific dựa vào hệ ngôn ngữ Austronesian của thổ dân Đài Loan đa dạng nhất so với Austronesian khác (Mã Lai, Indonesia, Philippines). Ngoài ra văn hóa lúa nước từ nam sông Dương Tử được truyền xuống Phi Luật Tân qua Đài Loan. Thuyết này được biết nhiều nhưng không giải thích được tại sao gốm Lapita ở các đảo trong thế giới Polynesia lại không có ở Đài Loan mà lại có rất nhiều ở Philippines và Trung Việt Nam (Sa Huỳnh).

Thuyết "tàu chậm" (Slow boat) của W. Solheim và S. Oppenheimer thì cho là người Polynesian là từ Đông Nam Á (Philippines, Champa). Trung tâm của người Austronesian là ở Đông Nam Á chứ không phải Đài Loan. Từ Đông Nam Á họ lên Đài Loan, đảo Ryukiu và nam Nhật. Thuyết "tàu chậm" là đối thủ của “thuyết tàu tốc hành" khoãng hơn 5 năm naỵ

Hiện nay hai thuyết "tàu nhanh" và "tàu chậm" chia các nhà khoa học thành hai khối "đánh nhau" rất sôi nổi và lý thú trong các năm gần đây (dùng ngôn ngữ, khảo cổ, di truyền...). Hai người sau cùng nhảy vào cuộc là Jared Diamond và Stephen Oppenheimer. Diamond ủng hô Peter Bellwood trong khi Oppenheimer ủng hộ Wilhem Solheim. Chuyện này cũng giống như hai khối "đánh nhau" về khám phá người lùn "Hobbit" mà giáo sư Mike Morwood ở Đại học New England (Úc) khám phá ở đảo Flores (Indonesia) trong hai năm qua.

Theo tôi bài của Friedlaender và đồng nghiệp (3), công phu nhưng chưa đủ vì cơ bản có hơi thiên vị cho thuyết “Đi từ Đài Loan trên tàu tốc hành" (“Out of Taiwan express train") trong cách đặt vấn đề và thiết kế thí nghiệm (experiment design). Để ý là bài trên PLOS chỉ tham khảo với Peter Bellwood mà hoàn toàn quên đi W. Solheim và S. Oppenheimer. Họ không lấy một mẫu (specimen) nào để thử nghiệm DNA để lấy dữ kiện di truyền DNA của người Austronesian hải đảo (Indonesia và Phillipnes hay Trung Việt Nam) mà chỉ lấy mẫu từ Austronesian Đài Loan. Tôi cho rằng cách làm này là thiên vị từ giai đoạn đầu qua sự bỏ quên nói trên. Trong bài PLOS cũng nói và công nhận là có thể nếu lấy mẫu từ Austronesian hải đảo sẽ có sự gần gủi hơn của nhóm này và người Polynesia. Kết quả là thuyết "cuộn rễ" bị đào thải nhưng chưa chứng minh được gì hết giữa "tàu chậm" và "tàu nhanh". Chính "tàu chậm" và "tàu nhanh" mới là vấn đề sôi nổi hiện nay chứ không phải "cuộn rễ" versus "tàu nhanh". Đọc bài này trên PLOS nhiều người, nếu không rõ bối cảnh của sự tranh luận, sẽ khâm phục cho là khách quan khoa học, nhưng thật ra đằng sau là có phe nhóm, thiên vi... dùng khoa học có mục đích trước để ủng hộ một lý thuyết một cách không khách quan lắm.

Gốm Lapita được định tuổi vào khoãng 4-5000 năm trước đây sau thời biển tiến (Holocene). Thuyết “tàu tốc hành” (Express train) cho là đất tổ (homeland) của người Austronesian là từ Tây Tạng, đến bờ biển nam Trung quốc qua Đài Loan và sau đó đến Đông Nam Á hải đảo. Từ Đài Loan, người bản sứ mang lúa nước xuống Phi Luật Tân, Indonesia và đẩy người Melanesia vào trong sâu đảo và phát tán đến đông Thái Bình Dương. Gốm Lapita ở Polynesia rất có liên hệ với gốm ở Sa Huỳnh và Phi Luật Tân trong khi không có gốm loại Lapita ở Đài Loan.

Thuyết tàu chậm ngược lại cho là đất tổ của người Austronesian là từ Phi Luật Tân -Indonesia (Wallacea), từ đó phát tán đi các nơi ở Đông Nam Á lục địa và Đông Á. Và tiếp xúc với Melanesia trước khi đi đông Thái Bình Dương.

Bình luận về bài vừa đăng trên Public Library of Sciences (PLOS) của nhóm Friedlaender, ông Spencer Wells, giám đốc Genographic Project của tổ chức National Graphic cho rằng chưa chứng minh được thuyết tàu chậm sai hay đúng vì không đã động gì đến dữ kiện di truyền ở nơi quan trọng nhất: Wallacea.


Quan niệm về vùng văn hóa và thương mại hàng hải Nusantao (Nusantao Maritime trading and Communication Network, NMTCN) 

Qua sự liên hệ văn hóa và di tích ở Sa Huỳnh và Kalanay ở Phi Luật Tân mà Solheim nghiên cứu đầu thập niên 1970 và những nghiên cứu của ông về nhân chủng và khảo cổ từ các di chỉ ở Đông Nam Á, năm 1984 Solheim đã đưa ra ý niệm về hệ thống văn hóa, thương mại Austronesian vùng Nusantao (từ gốc Austronesian “nusan” nghĩa là phía Nam và “tao” nghĩa là người) tạo thành từ cuối thời đá cổ và thời đá mới bắt đầu từ thời kỳ Holocene đến đầu công nguyên. Vùng này bao gồm Trung Việt Nam, biển Đông, Phi Luật Tân, xuống đến Indonesia, Mã Lai và đến tận Đài Loan và một phần duyên hải Nam Trung quốc ở phía bắc. 

Bằng chứng rõ nhất về sự liên hệ và hệ thống thương mại hàng hải trong vùng là sự phân phối đồ trang sức đeo tai bằng đá ngọc (jade) gọi là linglingo và đồ trang sức hình hai đầu thú cũng bằng ngọc tìm được từ Botel Tobago ở nam Đài Loan, Phi Luật Tân, Sarawak, bờ biển Thái Lan, Cần Giờ và nhiều nhất là bờ biển Nam trung phần Việt Nam. Cũng theo Solheim thì đất tổ (homeland) của người Austronesian hải đảo chắc là ở Trung phần Việt Nam mà cư dân Sa Huỳnh là hậu duệ (5)(6). Các di chỉ xương và sọ tìm được ở các di chỉ Sa Huỳnh trung phần Việt Nam và Giồng Cá Vồ (Cần Giờ) ở cửa biển sông Đồng Nai-Saigon là thuộc loại hình Indonesian chủng Nam Mongoloid với dấu ấn Australoid giống như cư dân ở quần đảo Phi Luật Tân, Indonesia, Malaya và răng thuộc loai hình Sundadont khác với loại hình nam Trung quốc chủng nam Mongoloid ít có yếu tố Australoid và răng thuộc loại hình Sinidont. Đây cũng là bằng chứng nhân chủng mà Oppenheimer đã nêu lên khi cho rằng thuyết của Bellwood về nguồn gốc nam Trung quốc và Đài Loan của người Austronesian ở Phi Luật Tân, Indonesia và Polynesian không có tính thuyết phục (7).

Dữ kiện vừa khám phá được vào năm 2007 về các đồ nữ trang cổ làm bằng ngọc (jade) cho thấy ý niệm về hệ thống văn hóa thương mại Nusantao là có cơ sở (2). Qua nghiên cứu dùng quang phổ X-ray, và phân tách hóa học các thành phần cấu tạo gồm sắt, magnesium, silicon để xác định về nguồn gốc 144 di vật (jade) ở các viện bảo tàng vùng Đông Nam Á, có niên đại từ hơn 3000 năm trước công nguyên đến năm 500 sau công nguyên tìm được khắp nơi từ các di chỉ khảo cổ ở nam Việt Nam (Cần Giờ), Đài Loan, Phi Luật Tân, Malaysia và Thái Lan của nhà nghiên cứu Hung Hsiao-chun và đồng nghiệp ở Đại học quốc gia Úc (Australian National University, ANU), cho thấy ít nhất 116 ngoc (jade) là có nguồn gốc từ mỏ ngọc Fengtian ở đông Đài Loan. Từ mỏ ngọc này, các ngọc được mang đến các cơ xưởng trong vùng Đông Nam Á để làm trang sức. Điểm đặc biệt là các đồ trang sức này mặc dầu tìm được ở các di chỉ cách xa nhau trong vùng Nusantao nhưng chúng lại rất giống nhau.

Một số đá ngọc Fengtian vỡ vụn tìm thấy trong vài di chỉ (khoảng 500 trước công nguyên cho đến 100 năm sau công nguyên) ở Phi Luật Tân, Thái Lan và nam Việt Nam cho thấy các nơi này có thể là các cơ sở làm đồ trang sức bằng ngọc, và từ đó xuất khẩu qua các nơi trong hệ thống thương mại Nusantao.

Trước đây nhiều nhà nghiên cứu cho là đồ trang sức ngọc ở các di chỉ thời tiền sử là từ Trung quốc hay Việt Nam, nhưng ngày nay ta đã rõ là bắt đầu từ Fengtian ở Đài Loan. Theo nhà nghiên cứu Hung thì cơ sở làm trang sức bắt đầu cách đây khoảng 5000 năm ở Fengtian và hiện nay được biết là một trong những đồ trang sức ngọc tìm được ở Phi Luật Tân có độ tuổi cách đây khoảng 4000 năm. Hệ thống thương mại đá quý ở Nusantao là hệ thống thương mại hàng hải lớn nhất thời tiền sử mà ta biết được từ trước đến nay.

Qua hệ thống hàng hải Nusantao, các gia súc như lợn, gà, chó cũng có khả năng đã được di chuyển trên các thuyền giao thông. Năm 2007, một nghiên cứu về di truyền của lợn (heo) trong vùng Đông Nam Á và Polynesia hải đảo cho thấy lợn ở các vùng này có gốc tích từ trung Việt Nam (1). Dùng mitochondria DNA (mtDNA) của 781 mẫu lợn xưa và nay Sus cho thấy sự di chuyển lợn Sulawesi (Sus celebensis) đến đảo Flores và Timor và hai lần di chuyển do con người của lợn nuôi (Sus Scrofa) qua Đông Nam Á hải đảo đến các đảo ở Thái Bình Dương. Lần di chuyển cuối trong hai ở trên gắn liền với sự phát tán gốm Lapita và sự phát tán lợn ở Java, Sumatra, các đảo ở Wallacea và Thái Bình Dương từ lợn Sus Scrofa ở Đông Nam Á đất liền qua các dữ kiện khảo cổ và di truyền. 

Vì thế nếu con người ở Polynesia hải đảo Thái Bình Dương là từ Đài Loan như theo thuyết tàu tốc hành của Bellwood thì sự phát tán của lợn và gốm Lapita không nằm trong sự di cư này từ Đài Loan mà phải ở sự thiên cư khác. Sự di cư này không phải từ bắc (Đài Loan) xuống nam (Phi Luật Tân rồi các đảo Thái Bình Dương) mà từ tây (đất liền Đông Nam Á) đến đông. Không những lợn mà nghiên cứu di truyền về giống gà (12) cho thấy là gà có nguồn gốc là Đông Nam Á đất liền và các gà ở khắp nơi ở Châu Á và hải đảo Thái Bình Dương đều có nguồn gốc từ đây.

Sự phát tán dân Sundaland sau các biến cố thay đổi khí hậu 

Trong bài nghiên cứu mới nhất về di truyền (14), sự đa dạng di truyền mtDNA của dân cư Đông Nam Á hải đảo là do sự phát tán đến các đảo vào cuối thời Pleistocene và đầu Holocene khi nước biển dâng lên vào cuối thời kỳ băng hà của con người đã sống ~50000 năm ở Đông Nam Á, cách đây ~15000 đến ~7000 năm, rất lâu trước khi có sự di dân sau này như trong thuyết từ Đài Loan. Sự phân tán dân cư này là từ vùng Sundaland (thềm lục địa) Đông Nam Á hiện nay) đi đến các vùng chung quanh trên lục địa Đông Nam Á hiện nay và cả đến Đài Loan (chứ không phải từ Đài Loan). 

Khác với các nghiên cứu di truyền mtDNA trước là toàn bộ hệ di truyền (genome) của mitochondria được phân tích thay vì chỉ một số mảng mtDNA. Thay vì qua ngôn ngữ chỉ có thể đi sâu đến 6000 năm trong quá khứ, như thuyết phát tán từ Nam Trung hoa và Đài Loan, thì qua di truyền mtDNA đi tận đến hơn 35,000 năm trước đây qua sự khác biệt từ đột biến từ khi con người đến Đông Nam Á cách đây hơn 50,000 năm.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy haplogroup E, phần di truyền quan trọng của mtDNA đánh dấu sự đa dạng trong vùng Đông Nam Á, đã tiến hóa biến dạng đa dạng trong 35,000 năm qua ở vùng Sundaland và sau đó phát tán rộng rãi nhất trong vùng Đông Nam Á vào khoảng đầu thời kỳ Holocene, thời điểm mà vùng lục địa cổ Sundaland bị tan vỡ thành các quần đảo như hiện nay bởi sự tăng lên của mực nước biển. Haplogroup E đến Đài Loan và vùng cận Thái Bình Dương trong khoảng 8000 năm qua. Điều này cho thấy là sự hâm nóng toàn cầu và mực nước biển tăng vào cuối thời băng hà, từ 15000 đến 7000 năm trước đây, là nguyên nhân chính tạo ra hình thể về sự đa dạng con người trong vùng.

Giáo sư Martin Richards, trong nhóm nghiên cứu, cho rằng kết quả này sẽ gặp sự phản ứng và phê bình của những người ủng hộ thuyết từ Đài Loan mà đa số là các nhà ngôn ngữ. Theo họ, người Austronesian đến từ Đài Loan thay thế và đẩy người thổ dân sống săn-lượm đã đến từ Phi châu cư ngụ trước cách đây 50,000 năm.
Người thổ dân không được chú ý, để ý đến và giáo sư Richards cho là đây là lỗi lầm lớn của những người theo thuyết từ Đài Loan. Nhóm nghiên cứu của giáo sư Richards gồm cả Stephen Oppenheimer đang tiếp tục phân tích hệ di truyền của nhiểm sắc thể Y (y-chromosome) truyền từ người cha sau khi đã hoàn tất nghiên cứu xong hệ di truyền MtDNA truyền qua người mẹ như đã mô tả ở trên.

Khi mực nước biển dâng lên cuối thời băng hà, qua ba đợt cách đây 14,000, 11,500 và 7,600 năm, tăng đến hơn 100m so với thời kỳ băng hà, ngập vùng Sundaland nhiều dân cư sống ở các cánh đồng phía trong và dọc các bờ sông đã biến mất chỉ còn lại những cư dân sống quanh bờ biển dài phía Đông Nam Sundaland đã thích ứng với hoàn cảnh sống ven biển và có văn hóa biển. Họ là hậu duệ của cư dân Sundaland và là tổ tiên người Austronesian hiện nay ở Đông Nam Á qua các kết quả về sự liên hệ đột biến di truyền ở mtDNA của các giống dân trong vùng hiện nay. 

Tổng luận

Qua cuộc tranh luận giữa hai thuyết Tàu tốc hành và Tàu chậm về nguồn gốc người Austronesian ở Đông nam Á, cho thấy kỹ thuật di truyền đã được coi là trọng tâm để trả lời các câu hỏi mà ngôn ngữ học, khảo cổ học và nhân chủng học chưa giải đáp được một cách thỏa đáng. Di truyền học con người trong những năm vừa qua đã đóng góp rất nhiều trong sự hiểu biết về nguồn gốc con người và dân tộc trong bối cảnh thiên di thời tiền sử. Tuy nhiên di truyền học qua công nghệ DNA có những giới hạn và những vấn đề mà chúng ta nên để ý và quan tâm.

Di truyền học (genetics) là một công cụ hay phương tiện (một trong nhiều phương tiện khác như ngôn ngữ, di vật khảo cổ) để trả lời một số câu hỏi mà chúng ta muốn có câu trả lời. Nhưng đa số các câu hỏi hiện nay chưa có câu trả lời xác đáng và vì thế mới có công việc cho nhiều người, kể cả chúng ta có dịp viết và đặt giả thuyết dùng các dữ kiện đã có...


Một số câu hỏi, theo tôi, mà kỹ thuật di truyền có thể giúp để tìm ra sự thật hay những gì đã xảy ra trong quá khứ

(1) Sự liên hệ giữa các giống dân hiện nay ở nhiều vùng và từ đâu một giống dân này xuất hiện và ở thời điểm nào. Giống dân có genes (DNA) càng nhiều đa dạng (diversities) thì là dân xưa hơn dân có ít đa dạng DNA (vì qua biến dạng, mutation clock)

(thí dụ giống dân ở Tây Nguyên, nhóm nói ngôn ngữ thuộc hệ Mon-Khmer và nhóm nói ngôn ngữ thuộc hệ Austronesian, có liên hệ thế nào với nhau và với người Kinh và những nhóm dân tộc này từ đâu đến ?)

(2) Sự liên hệ của cư dân hiện đại trong một vùng với những di tích xương người cổ ở vùng đó thế nào? (thí dụ thi hài người cổ đào được gần đây ở Mạn Bắc gần Ninh Bình thuộc văn hóa Đông Sơn và người Việt ở vùng chung quanh có liên hệ thế nào ?)

(3) Quan niệm mà chúng ta phân chia giống người theo tiếng nói, chủng tộc (nam mongloid, australoid, austroasiatic, austronesian..) do các nhà nghiên cứu đặt ra để phân loại, làm đơn giản hóa vấn đề mà họ quan sát được (genotype, ngôn ngữ, hình thái..) có thể được chấp nhận là còn đúng không nếu dùng hoàn toàn qua sự khác nhau của các code của genes. Sự xếp loại theo hệ gien (gene codes) có thể hoàn toàn khác với xếp loại dựa theo quan sát được.


Câu hỏi vĩ mô về con người hiện đại từ đâu đến đã được giải thích thỏa đáng qua đi truyền học nhưng các câu hỏi "vi mô" về sự liên hệ giữa các giống chủng tộc, dân tộc và văn minh khác nhau là vấn đề có thể giải được kế tiếp nhưng cũng rất khó vì càng đi vào chi tiết càng khó khăn hơn (tương tự như giải mã hệ di truyền genomes thì dễ nhưng áp dụng chi tiết hơn để biết được quá trình sinh ra protein thì khó hơn). Khuynh hướng hiện nay là dùng kết quả của tất cả các khám phá trong di truyền học, ngôn ngữ học, khảo cổ học.. để xác định và tìm ra sự thật hay chứng minh và phản biện các lý thuyết về lịch sử hay nhân chủng. Tuy vậy chúng ta cũng phải biết giới hạn của kỹ thuật di truyền hiện nay và nhận ra rằng vấn đề nguồn gốc dân tộc vẫn là một vấn đề khó khăn trong sự tìm hiểu để giải thích chính xác và đạt được sự đồng thuận như sự tranh luận hiện nay giữa thuyết “tàu tốc hành” và thuyết “tàu chậm” cho thấy.

Sydney, 27/06/2008

Tham khảo

(1) Greger Larson et al., Phylogeny and ancient DNA of Sus provides insights into neolithic expansion in Island Southeast Asia and Oceania, Proceedings of National Academy of Sciences (PNAS), 20/3/2007, vol. 104, nọ 12, pp. 4834-4839.

(2) Hsiao-Chun Hung et al., Ancient jades map 3,000 years of prehistoric exchange in Southeast Asia, Proceedings of National Academy of Sciences (PNAS), 11/12/2007, vol. 104, no. 50, pp. 19745-19750.

(3) Jonathan Friedlaender et al., The Genetic Structure of Pacific Islanders, Public Library of Sciences (PLOS) Genetics, January 2008, vol. 4, issue 1, pp. 173-188. (http://genetics.plosjournals.org/archive/1...n.0040019-S.pdf)

(4) Catherine T. Flessen, Bellwood and Solheim: Models of Neolithic movements of people in Southeast Asia and the Pacific, Norwegian University of Science and Technology (NTNU),

(5) Wilhelm G. Solheim II, The Nusantao hypothesis: The origins and spread of Austronesia speakers, Asian Perspective XXVI, 1984-1985, pp. 77-78.

(6) Wilhelm G. Solheim II, Taiwan, Coastal South China, and Northern Vietnam and The Nusantao Maritime Trading Network, Journal of East Asian Archeology, JEAA, Vol. 2, No. 1-2, 2000, pp. 273-284.

(7) Stephen Oppenheimer, The ‘Express Train from Taiwan to Polynesia’: on the congruence of proxy lines of evidence, World Archaeology Vol. 36(4): 591 – 600 Debates in World Archaeology, 2004.

(8) Hong Shi, Yong-li Dong et al, Y-Chromosome evidence of southern origin of the East Asian-specific Haplogroup O3-M122, Am. J. of Human Genetics, 77:408-419, 2005.

(9) Hui Li, Ying Huang et al., Y chromosomes of prehistoric people along the Yangtze River, J. of Human Genetics, July 2007.

(10)Chu, J. Y. et al, Genetic relationship of populations in China, Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768 (1998).

(11)Liu YP, Wu GS, Yao YG, Miao YM, Luikart G, Baig M, Beja-Pereira A, Ding ZL, Palanichamy MG, Zhang YP, Multiple maternal origins of chickens: Out of the Asian jungles, Mol. Phylogenet. Evol., 2006, 38:12-19.

(12)C. Hill, P. Soares, M. Mormina, V. Macaulay, D. Clarke, P.B. Blumbach, M. Vizuete-Forster, P. Forster, D. Bulbeck, S. Oppenheimer, and M. Richards. 2007. A mitochondrial stratigraphy for Island Southeast Asia. The American Journal of Human Genetics 80:29-43.

(13)Meacham W (1984–85) On the improbability of Austronesian origins in South China,. Asian Perspect 26:89–106.

(14)Soares, P., et al, Climate Change and Post-Glacial Human Dispersals in Southeast Asia, Mol. Biol. Evol., June 2008; 25: 1209 - 1218.

Phụ lục:
Nguời K'hor ở Daknong và Dayak ở Borneo
 

Tháng 9/2007, trong các ảnh dự thi do công ty thám hiểm du lich Intrepid tổ chức, hai ảnh của hai nhiếp ảnh viên trúng giải (thể loại Lonely Planet cho Lý Hoàng Long và thể loại Overall cho Harjono Djoyobisono). Đối với nhiều người thì đây là những ảnh nghệ thuật thuần túy, nhưng về phương diện lịch sử và dân tộc học, thì thật ngạc nhiên và thích thú khi thấy hai hình ảnh về hai người đàn bà sống cách nhau hàng ngàn cây số qua biển Đông bởi hai nhiếp ảnh viên (một Việt, một Indonesia). Một sự trùng hợp ngẫu nhiên không quen biết nhau của 2 nhiếp ảnh viên về hai đối tượng có chung một tập tục lâu đời. Văn hóa của người K'hor ở Daknong và người Dayak ở Borneo phải có cùng nguồn gốc và liên hệ chủng tộc với nhau qua sự giống nhau không ngờ của hai người đàn bà trên ảnh. Đây cũng có thể là một bằng chứng cho thấy thuyết “tàu chậm” có cơ sở.