Học giả phương Tây xuyên tạc lịch sử phương Đông như thế nào?
I. Lịch sử phương Đông trong cái nhìn nguyên sơ
Có một truyền thuyết Trung Hoa nói rằng, khoảng 2600 năm TCN, họ Hiên Viên thống lĩnh các bộ lạc du mục Tây Bắc, tấn công liên quân Việt ở Trác Lộc trên Hoàng Hà. Thủ lĩnh Bách Việt là Si Vưu bị diệt, người du mục kéo vào vùng hoàng thổ, lập nhà nước đầu tiên của dân tộc Trung Hoa, tôn xưng Hiên Viên làm Hoàng Đế.
Hoàng Đế truyền cho Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đế Du Võng, Đế Chí, Đế Cốc tới Đế Nghiêu (2347-2246 TCN) rồi Đế Thuấn (2355-2204 TCN). Nghiêu và Thuấn được coi là thời đại hoàng kim của dân tộc Trung Hoa với nền quân chủ thịnh trị, xây dựng được điển chương, vua sáng, tôi hiền, dân an.
Một câu hỏi nảy sinh: vì sao chỉ trong vòng 250 năm mà người du mục vừa rời những đồng cỏ chăn cừu, trên lưng ngựa chiến xuống nam Hoàng Hà đã xây dựng được xã hội nông nghiệp văn minh như vậy? Phải chăng đó là gia sản mà người du mục mang từ hoang mạc xuống? Câu trả lời là không! Nền văn hóa nông nghiệp không thể do dân du mục mang tới!
Câu hỏi khác: vì sao sau những Thiếu Hạo, Chuyên Húc lại là những vị đế mang tên Việt như Đế Chí, Đế Cốc…? Tuy không lời đáp suốt mấy nghìn năm nhưng trong linh cảm, người ta tin rằng những vị này dính dáng tới nguồn gốc Bách Việt!
Kinh Dịch, tương truyền là của người Trung Hoa, trong Hệ từ hạ ghi:
“Thời cổ họ Bào Hy trị thiên hạ: ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xét hình đất. Quan sát từng dáng điệu của thú và chim để thích nghi vào mọi miền. Gần thì suy trực tiếp nơi mình; xa thì gián tiếp từ sự vật đặng thông với linh đức của thần minh, hầu có thể phân loại tính tình của vạn vật đặng mà điều lý. Kết nút dây để làm lưới làm vó đặng đi săn và đánh cá. Khi họ Bào Hy qua thì họ Thần Nông lên thay, đẽo gỗ làm lưỡi (cày) uốn gỗ làm cày: dạy cho thiên hạ biết nguồn lợi của sự cày bừa. Tất cả đều lấy hứng từ quẻ Ích”.
Phục Hy (4480-4369 TCN) sống trước Hoàng Đế hơn 1700 năm. Thần Nông (3320-3080 TCN) trước Hoàng Đế hơn 700 năm.
Một câu hỏi: vì sao Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế cùng là tổ của người Trung Hoa? Phải chăng hai vị trên là tổ từ thời xa thẳm trên thảo nguyên mà người Hoa mang xuống phụng thờ?
Hoàn toàn không! Cũng như ngựa không thể đẻ ra trâu, dân du mục không thể có những vị tổ nông nghiệp! Vậy thì vì sao các vị thần của nghề nông phương Nam trở thành tổ của người Hoa, ở trên vị vua khai sáng là Hoàng Đế?
Câu hỏi như vậy nhiều lần được đặt ra nhưng cũng chưa có lời đáp! Tuy nhiên, nó gợi lên điều là, ảnh hưởng của văn minh nông nghiệp, của phương Nam không chỉ tới văn hóa mà cả tới cội nguồn tổ tiên của người Hoa!
Một điều nữa khiến ta chú ý là, trong Thượng thư, cuốn sử sớm nhất của Hoa tộc, thường nhắc tới những cuộcchinh phạt rợ Tam Miêu của vua Nghiêu, vua Thuấn. Cùng câu hát trong cuốn Kỳ môn độn giáp đại toàn thư: “Tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu -.” (Ngày xưa Hoàng Đế đánh Si Vưu, trận Trác Lộc tới nay còn chưa dứt), những dòng chữ hiếm hoi trong Thượng thư cho biết, các vương triều Hoa Hạ suốt 250 năm luôn phải đối đầu với cuộc chiến dai dẳng của người Việt! Như vậy có sự thực là, tuy thua cuộc, nhưng người Việt không bị biến mất trong lịch sử mà vẫn là thế lực bất khuất, luôn đánh trả kẻ xâm lăng. Điều này chứng tỏ người Việt bản địa có vai trò không nhỏ trên đất Trung Nguyên.
Trong những kinh sách do Khổng Tử soạn, ông đều nói: “Ta thuật lại chứ không sáng tác.” Thuật lại có nghĩa là ghi chép lại, biên tập lại những điều có từ trước. Vậy, câu hỏi được đặt ra là, ai là tác giả của Tam Phần, Ngũ Điển? Nếu nói những sách này xuất hiện từ thời Nghiêu, Thuấn thì câu hỏi tiếp sẽ là: Vì sao chỉ hơn 200 năm mà từ những tộc du mục mông muội, người Hoa Hạ tiến tới nền văn hiến rực rỡ như vậy? Chưa có lời đáp!
Trong kinh Thi, ta thấy Khổng Tử đề cao hai chương Chu Nam và Thiệu Nam, nói lên sự thuần hậu trong phong tục tập quán của phương Nam. Sách Trung dung ghi lời Khổng Tử: “Khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo, Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi” (cái mạnh của phương Nam là lấy lòng nhân để giáo hóa, không trả thù kẻ vô đạo. Đó là nơi người quân tử ở.)
Rõ ràng là ở đây, Khổng Tử chỉ ra phương Nam văn minh hơn phương Bắc. Điều này gián tiếp nói rằng, văn hóa Trung Hoa là từ phương Nam lên. Cũng có nghĩa là cội nguồn văn hóa ở phương Nam.
Về ngôn ngữ, ta thấy, ngôn ngữ Trung Hoa quá phồn tạp, nhưng từ thời Chu, vương triều đã quy định dùng Nhã ngữ là ngôn ngữ thanh nhã của phương Nam. Tới thời Tần, khi thống nhất văn tự, đã lấy nhã ngữ làm quốc ngữ. Cách đọc quốc ngữ là quảng vận được duy trì cho tới thời Đường, Tống. Như vậy, tiếng nói và chữ viết của Trung Hoa chính là chữ viết và tiếng nói của người Việt phương Nam!
Bất cứ ai đi suốt Trung Hoa từ Nam lên hay Bắc xuống đều nhận ra phương Nam trù phú, văn minh, còn phía Bắc nghèo và lạc hậu của vùng chưa phát triển.
Mặc dù hàng nghìn năm, Trung Quốc cho rằng mình ở giữa thiên hạ, đem ánh sáng văn minh khai hóa các tộc “di, rợ” xung quanh nhưng từ những thực tế trên, buộc người ta cảm nhận tới một sự thật khác: văn minh nảy sinh ở phương Nam, thuộc về những người được coi là “di, rợ”.
II. Vai trò của học giả phương Tây
Cuối thế kỷ XIX, từ phát hiện nền văn minh Mesopotamia rực rỡ, nơi người tiền sử đã sáng tạo nghề nông và đồ gốm, đồ đồng từ rất sớm, giới khoa học phương Tây cho rằng, văn minh nhân loại được nảy nở từ những ngọn đồi vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu rồi truyền tới Hy Lạp, La Mã. Một nhánh đi tới Trung Á, sang Viễn Đông.
Từ quan niệm này, khi khảo cứu nguồn gốc người Khmer ở Đông Dương, học giả Pháp E. Aymonier cho rằng:
“Tổ tiên những tộc người ngôn ngữ Môn-Khmer thuộc về chủng tộc Negritoid, bắt nguồn từ những sườn núi phía Nam Tây Tạng rồi chia đôi ra và di chuyển về phương Nam theo hai hướng - hướng Tây Nam sinh ra người Munda ở Ấn Độ, hướng Đông Nam sinh ra tộc người Môn-Khmer ở Đông Dương. (Aymonier. E. - Le Cambodge, T.3, Paris 1904. Dẫn theo Nhân chủng học ĐNA tr. 118)”
Công trình khảo cứu của Andrews đã đưa tới kết luận là “20.000 năm trước T.L, xứ Mông Cổ đã đông dân cư, khí cụ của họ thuộc thời “azilien”, thời trung thạch khí ở châu Âu, rồi khi miền Nam Mông Cổ càng ngày càng khô nóng, thành sa mạc Gobi thì giống người đó tràn sang Tây Bá Lợi Á và Trung Hoa.” (Will Durant: Lịch sử văn minh Trung Hoa)
Từ phát hiện văn hóa Ngưỡng Thiều huyện Thằng Trì tỉnh Hà Nam, Trung Quốc với nông nghiệp trồng kê, đồ gốm men cùng xương cốt người cổ đồng chủng với người Trung Hoa hiện đại và văn hóa Long Sơn ở tỉnh Sơn Đông, phần nhiều học giả cho rằng, văn minh Hán đã từ Ngưỡng Thiều truyền tới Long Sơn rồi dịch chuyển về phía Nam.
Lý thuyết này tạo “cơ sở khoa học” cho quan niệm “văn minh truyền từ Tây sang Đông và từ Tây Bắc xuống Đông Nam.” Vô hình trung học giả phương Tây ủng hộ thuyết “văn minh Trung Hoa khai hóa các dân tộc phương Nam.”
“Năm 1932, nhà nhân chủng học người áo Robert Heine-Geldern công bố đề cương truyền thống thời tiền sử Đông Nam Á. Ông đã đề xướng một loạt những “đợt sóng văn hóa” với ý nghĩa, những người di cư đã đem tới Đông Nam Á những chủng tộc chính ngày nay đã được tìm thấy ở khu vực. Ông cho rằng đợt di dân quan trọng nhất là của những người đã chế ra một dụng cụ đá hình chữ nhật được gọi là cái rìu, từ Bắc Trung Hoa xuống Đông Nam Á và lan xuống Malay Peninsula, Sumatra, Java, thậm chí tới Borneo, Philppine, Đài Loan và Nhật Bản. Sau đó ông Robert Heine-Geldern đã giải thích sự du nhập đồ đồng vào Đông Nam Á như sau: Nguồn gốc nguyên thủy của thời đại Đồ Đồng ở Đông Nam Á được di dân du nhập từ Đông Âu khoảng 1000 năm TCN. Ông cho rằng những di dân đó di chuyển vào phía Đông và phía Nam Trung Hoa vào thời Tây Chu (khoảng từ năm 1122 – 771 TCN). Những di dân này đã đem theo không chỉ kiến thức về chế tạo đồng, mà còn đem tới hình thức nghệ thuật mới. Vì vậy, họ đã thiết kế đồ đồng với các đường thẳng, đường xoắn ốc, tam giác cùng hình người và thú vật. Nghệ thuật này được ứng dụng trong toàn vùng Đông Nam Á, được hai ông Robert Heine-Geldern và Bernhard Karlgren, một học giả Thụy Điển, gọi là văn hóa Đông Sơn theo tên một địa điểm ở miền Bắc Việt Nam, phía Nam Hà Nội, nơi mà các trống đồng lớn cùng các cổ vật khác được tìm thấy. Hai ông đều cho rằng người dân Đông Sơn đã đem đồng và nghệ thuật chạm trổ kỷ hà vào Đông Nam Á.
Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông Nam Á là một vùng nước đọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay thậm chí Đông Âu, đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một quan điểm gần như “chính thống” của đại đa số giới học giả Tây phương là văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á chẳng có phát kiến gì đáng kể.
Một trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges Coedès, Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950, bỏ ra nhiều năm để phiên dịch những văn bia tiếng Phạn mà ông tìm thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam. Coedès và nhiều đồng nghiệp của ông thời đó tin rằng văn minh nhân loại khởi nguồn từ vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) đến Ai Cập, rồi lan sang Hy Lạp và La Mã. Niên đại của các tượng đài tại Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy đây là hai nền văn minh phát triển sau nền văn minh Lưỡng Hà. Coedès từ đó suy luận rằng Đông Nam Á chỉ là hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc mà thôi. Năm 1966, Coedès còn viết: Người Đông Nam Á “có vẻ thiếu thiên tư sáng tạo và năng khiếu tiến bộ”. Mãi đến năm 1971, nhà sử học người Anh Grahame Clark vẫn đánh giá thấp văn minh Đông Nam Á. Ông cho rằng người tiền sử Đông Nam Á chưa bao giờ thoát khỏi thời đại Đồ Đá (Stone Age) để tiến lên thời đại Đồ Đồng như các nền văn minh khác. Clark viết rằng không như văn minh Lưỡng Hà hay Trung Hoa, “người Đông Nam Á vẫn tiếp tục sử dụng công cụ bằng đá cho đến thời đại Kitô giáo”. Từ năm 1979, trước một số di vật được sản xuất bằng đồng và một số đồ gốm thuộc thời tiền sử được tìm thấy ở Đông Nam Á, Clark vẫn bác bỏ sự hiện hữu của một nền văn minh Đông Nam Á: ông cho rằng đó chỉ là những phát hiện “khác thường” và tin rằng đó là những công cụ do các nền văn minh khác đem lại cho Việt Nam mà thôi.” (G.S. Nguyễn Văn Tuấn- Lời giới thiệu cuốn Địa đàng ở phương Đông).
Vào những năm 20 thế kỷ trước, học giả người Pháp, L. Aurousseau khai thác thư tịch Trung Hoa, cho rằng:
“Người Việt Nam trước ở Trung Hoa rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam. Nước Sở thuộc dòng Bách Việt, lãnh thổ bao gồm 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN. Đến thế kỷ thứ IX trước CN, một ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông Dương Tử, định cư ở Triết Giang, thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào thế kỷ thứ VI trước CN. Năm 333 trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy về phương Nam theo bốn nhóm: Nhóm Đông Âu hay là Việt Đông ở miền Ôn Châu (Triết Giang). Mân Việt ở Phúc Kiến, Nam Việt ở Quảng Đông, Quảng Tây, Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam. Các nhóm kể trên bị Hán hóa, chỉ còn lại nhóm Lạc Việt là tồn tại…” “Vậy thời ta có đủ chứng cớ mà nói quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đã ở miền tỉnh Triết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy”.
Ở bước chuyển mình từ Nho học truyền thống sang học hỏi văn hóa nhân loại, vào thập niên 30-40 thế kỷ trước, lớp trí thức tiên phong người Việt đã hào hứng tiếp thu những “phát kiến” tân kỳ đó của học giả phương Tây.
Trong Việt Nam sử lược ấn hành đầu thập niên 40, sử gia Trần Trọng Kim viết:
“Theo ý kiến của nhà kê cứu nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông Nam, lập ra nước ta bây giờ, còn người Thái thì theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La và các nước Lào, Mên.”
Học giả người Pháp, viện sĩ Maspero (1912) cho ngôn ngữ Thái giữ vai trò chủ đạo trong thời tiền sử Đông Á nên khi làm những nghiên cứu so sánh ngôn ngữ học đã đem chữ Hán được điển chế hàng ngàn năm đối chiếu với chữ Việt Latinh hóa mới chừng hơn trăm tuổi và thống kê được, trong tiếng Việt có đến 70% vay mượn từ tiếng Hán!
Các học giả Việt Nam như Ngô Tất Tố, Trần Trọng Kim nhắc lại ý tưởng này trong sách của mình và đem dạy nhiều thế hệ học trò Việt. Kết quả là cho tới tận hôm nay điều sai lầm như vậy vẫn ám ảnh trong đầu óc của nhiều người.
Có điều khó hiểu là, không biết vì sao, trong khi phải học người Việt từ nghề nông tới tiếng nói, chữ viết thì người Hoa Hạ lại tự cho mình là văn minh, cao quý, là trung tâm ban phát văn minh cho các dân “di, rợ” xung quanh?! Quan niệm đó theo thời gian càng tăng lên, nhất là sau thời Tần, Hán. Đến thời cận đại, những “khám phá khoa học” của học giả phương Tây vô hình trung tiếp tay chủ nghĩa bá quyền của người Trung Hoa đè nén tinh thần các dân tộc Đông Nam Á.
Công bằng mà nói, không phải tất cả học giả phương Tây đều mang đầu óc kỳ thị như vậy.
Không ít nhà khoa học trung thực đã dành nhiều tâm lực đi tìm cội nguồn văn hóa phương Đông, đem lại công bằng và danh dự cho những dân tộc từng bị gạt ra bên lề của lịch sử.
Từ giữa thế kỷ XIX, trong cuốn Về nguồn gốc các loài, Darwin công bố: “Tổ tiên mọi giống gà trên thế giới hiện nay là con cháu của con gà rừng duy nhất được thuần hóa tại Đông Nam Á, 15000 năm trước.”
Đây là phát hiện lớn và vô cùng quan trọng vì trong chiều sâu khoa học, thuần hóa vật nuôi chỉ xảy ra khi con người sống định cư, có nghề trồng ngũ cốc. Điều này cho thấy, 15000 năm trước, tại Đông Nam Á, nông nghiệp trồng ngũ cốc đã xuất hiện. Tiếc rằng suốt một trăm năm, giới khoa học đã không đếm xỉa tới đề xuất thiên tài của tác giả thuyết Tiến hóa.
Một trăm năm sau, năm 1952, nhà địa chất học người Mỹ Carl Sauer đi một bước xa hơn. Ông nêu giả thuyết là cây cỏ đầu tiên trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á. Ông phỏng đoán rằng cây cỏ thuần dưỡng, được những người sống trong nền văn hóa trước thời kỳ Đông Sơn mang tới, họ là chủ nhân nền văn hóa nguyên thủy được biết đến như là văn hóa Hòa Bình. Tuy nhiên, cũng như Darwin một trăm năm trước, ý kiến của ông bị bỏ qua. Các nhà khảo cổ thời đó đã không chấp nhận lý thuyết này.
Tháng Ba năm 1971, Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, Giáo sư nhân học, Đại học Hawaii, sau nhiều năm khai quật những di chỉ khảo cổ ở Thái Lan, công bố chuyên luận Ánh sáng mới trên vùng quên lãng (New light on Forgotten Past) với những ý tưởng như sau:
1. Tôi đồng ý với Sauer là dân cư thuộc văn hóa Hòa Bình là những người đầu tiên trên thế giới đã thuần hóa cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Đông Nam Á. Việc này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nếu sự thuần hóa bắt đầu sớm nhất khoảng 15.000 năm TCN.
2. Tôi cho rằng những dụng cụ bằng đá được tìm thấy ở miền Bắc Australia có tuổi Carbon 14 khoảng 20.000 năm TCN có nguồn gốc từ văn hóa Hòa Bình.
Trong khi niên đại sớm nhất của đồ gốm hiện được biết ở Nhật khoảng 10.000 năm TCN, tôi kỳ vọng rằng khi nhiều địa điểm Hòa Bình với gốm văn thừng được xác định niên đại, chúng ta sẽ nhận ra rằng gốm chính do những người này làm ra chắc chắn trước 10.000 năm TCN, và có thể họ đã phát minh ra cách làm đồ gốm.
3. Quan niệm truyền thống về thời tiền sử Đông Nam Á cho rằng các di dân từ miền Bắc đem những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến vùng Đông Nam Á. Thay vào đó, tôi đề nghị văn hóa Đá mới sớm nhất (cũng có nghĩa là cả thời Đá muộn) ở Bắc Trung Hoa như văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao) thoát thai từ một nền văn hóa phụ của văn hóa Hòa Bình từ phía bắc Đông Nam Á di chuyển lên vào khoảng thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước Công nguyên.
4. Tôi đề nghị nền văn hóa muộn hơn, được gọi là văn hóa Long Sơn (Lungshan) vốn được cho là xuất phát từ Ngưỡng Thiều ở phía bắc Trung Hoa sau đó lan xuống Đông và Đông Nam, thực ra đã được phát triển ở Nam Trung Hoa và di chuyển lên hướng Bắc. Cả hai nền văn hóa này đều thoát thai từ văn hóa Hòa Bình.
5. Thuyền làm bằng thân cây có thể được sử dụng trên sông ngòi Đông Nam Á trước thiên niên kỷ thứ năm. Có thể không lâu trước 4.000 năm TCN, xà nách (cái xiểm - outrigger) được phát minh ở Đông Nam Á, tạo sự ổn định cần thiết để đi biển. Tôi tin rằng phong trào đi khỏi khu vực bằng thuyền bắt đầu khoảng 4000 năm TCN, dẫn đến các cuộc du hành ngẫu nhiên từ Đông Nam Á tới Đài Loan và Nhật Bản, đem tới Nhật kỹ thuật trồng khoai môn và các hoa mầu khác.
6. Ở thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên, những tay chèo thuyền Đông Nam Á, đã đi tới những đảo ở Indonesia và Philippine. Họ đem cả một nghệ thuật kỷ hà gồm những đường xoắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật trong những kiểu mẫu được dùng chạm trổ ở đồ gốm, đồ gỗ, hình xăm, quần áo bằng vỏ cây, và sau đó là vải dệt. Những mỹ thuật kỷ hà này được tìm thấy trên các đồ đồng Đông Sơn và đã được cho là từ Đông Âu tới.
7. Người Đông Nam Á cũng đi về phía Tây tới Madagascar khoảng 2000 năm về trước, mang cống hiến quan trọng của họ cho sự thuần hóa cây trồng ở Đông Phi. Cũng khoảng thời gian này, sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Địa Trung Hải bắt đầu, có thể bằng đường biển, nhờ vào phát triển giao thương. Một vài đồ đồng khác thường được tìm thấy ở Đông Sơn có thể có nguồn gốc Đông Địa Trung Hải.”
Năm 1998, Giáo sư Stephen Oppenheimer Đại học Oxford nước Anh, công bố công trình quan trọng Địa đàng ở phương Đông - về các lục địa Đông Nam Á bị chìm.
Với khối lượng lớn tư liệu di truyền học, khảo cổ học, dân tộc và văn hóa học, tác giả chứng minh một cách thuyết phục những đề xuất của Sauer, Solheim và khẳng định rằng, Đông Nam Á là cái nôi phát sinh văn hóa nhân loại.
Năm 2004, với tư cách người dẫn đầu ngành di truyền nhân học Anh, ông công bố con đường rời châu Phi của nhân loại, trong đó chỉ ra rằng 70000 năm trước, người tiền sử đã theo ven biển Nam Á tới Việt Nam, sau đó từ Việt Nam đi lên Trung Hoa và chiếm lĩnh châu Mỹ.
Năm 1998, Giáo sư Y. Chu, một người gốc Hoa sống tại Mỹ cùng 13 đồng nghiệp trong Dự án Đa dạng di truyền người Trung Quốc, sau nhiều năm nghiên cứu với khoảng tài trợ 1.000.000 USD của Quỹ phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc, công bố rằng: khoảng 60-70000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi đã theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam rồi khoảng 40000 năm trước, từ Việt Nam đi lên Trung Hoa để khoảng 30000 năm trước, sang châu Mỹ!
Như vậy là, bên cạnh những người mang đầu óc thực dân, xuyên tạc, vùi dập văn hóa Đông Nam Á, có những học giả công tâm, trung thực, hết mình vì chân lý khoa học, bỏ nhiều tâm lực khám phá lịch sử chân thực của các dân tộc vùng đất thiêng này.
III. Giải tỏa ảnh hưởng những sai lầm cũ.
Điều không bình thường, đáng suy ngẫm là, trong khi có những nhà khoa học phương Tây dành nhiều công sức phát hiện lại thời tiền sử Đông Nam Á thì hầu hết học giả người Việt hoặc thờ ơ, không biết đến những phát kiến này hoặc nghi ngờ phản bác.
Giáo sư Lê Thành Khôi là một ví dụ. Là người không mệt mỏi truyền bá lịch sử, văn hóa Việt với thế giới nhưng tiếc rằng, trong bài bình về cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Giáo sư Trần Ngọc Thêm, ông vẫn giữ quan điểm cũ kỹ “Lưỡng Hà là khởi thủy của văn minh nhân loại” đồng thời phản bác những phát hiện của Solheim.
Hơn 40 năm trước, khi Giáo sư Kim Định đề xuất thuyết Việt Nho, cho rằng Nguyên Nho hay Việt Nho của tộc Việt cổ, là cội nguồn của văn hóa Trung Hoa, do không đủ bằng chứng, ông chịu sự bài bác nặng nề. Nhưng nay, nhờ những khám phá mới về cội nguồn tộc Việt, thuyết của Kim Định được khoa học chứng minh. Tiếc rằng, lời chửi rủa ông vẫn chưa ngớt mà cay độc nhất, dai dẳng nhất được phát ra từ nhà sử học danh tiếng Tạ Chí Đại Trường.
Năm 2005, nhà sử học hàng đầu Việt Nam Trần Quốc Vượng, khi trả lời đài BBC tiếng Việt vẫn “ủng hộ thuyết đa nguồn gốc của loài người” đồng thời khẳng định người Việt bị Trung Hoa đồng hóa từ thời Bắc thuộc!
Ít năm trước, khi một tác giả Hán Nôm thầm thì nói: “Những địa danh có chữ Kẻ trên vùng Đất Tổ có thể là từ thuần Việt,” liền bị một học giả chữ nghĩa cùng mình là An Chi phản pháo: “Kẻ là Cái, Giới, Giái… là 100% Trung Quốc, tất cả đều "made in China!” Nghe ngữ điệu đoạn văn, ta rợn người vì sự đắc thắng sảng khoái của tác giả!
Không chỉ thế, còn nhiều nhiều nữa những người mặc dù đã đọc “Phát hiện lại Việt nhân ca”, “Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn” cùng hàng trăm chứng cứ khẳng định “Tiếng Việt, chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán” thì không ít người vẫn cho rằng “cả những tiếng tưởng chừng Việt nhất như Bút, Viết… cũng là Hán!” Rồi “Từ chuột, trâu, hổ, mèo quê mùa Việt Nam, khi lên phía Bắc, được trí tuệ Hán siêu việt thăng hoa, nâng cấp trở thành Tý, Sửu, Dần, Mão… quay trở lại dạy dỗ người Việt!”
Không thể nào hiểu được, là những người yêu nước, có tinh thần dân tộc nhưng vì sao những vị này vẫn cố bám giữ những tri thức đã bị khoa học phủ nhận?!
Sau hàng nghìn năm mất cả văn hóa cùng lịch sử, tưởng rằng, ngày nay, khi tìm lại lịch sử, văn hóa đích thực, mọi người sẽ hồ hởi tiếp nhận, biến thành công cụ giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ văn hóa… Nhưng sao cuộc trở mình lại khó vậy?
Thanh minh năm Tân Mão
(Nguồn: Văn hóa Nghệ An)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét