MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ ĐẶC TÍNH KINH TẾ,
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ CẤU TRÚC QUYỀN LỰC
CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á THỜI CỔ TRUNG ĐẠI
PGS.TS NGUYỄN VĂN KIM
Phó hiệu trưởng Trường Đại học KHXH&NV
Đại học Quốc gia Hà Nội
1. Những đặc tính về kinh tế - xã hội
Nằm ở
phía Đông Nam của châu Á, Đông Nam Á là một khu vực Địa - kinh tế, Địa - văn hoá
có những đặc tính tự nhiên và lịch sử riêng biệt. Chịu tác động sâu sắc những
điều kiện tự nhiên của một khu vực nhiệt đới - gió mùa, hầu hết các quốc gia
trong khu vực đều gắn liền với môi trường biển, cận biển. Khí hậu nóng, ẩm, gió
mùa và nguồn nước vô tận của các hệ thống sông lớn như Hồng Hà, Mekong, Chao
Phraya, Jambi... cũng như đại dương đã tạo nên những đặc tính chung nhất cho
các quốc gia Đông Nam Á.
Chịu sự
chi phối của Hệ sinh thái phổ tạp (General
ecosystem), từ sớm cư dân Đông Nam Á bản địa đã chứng tỏ một năng lực
thích ứng cao với môi trường tự nhiên và đã thể hiện kỹ năng khai thác các tiềm
năng kinh tế tự nhiên, xã hội và văn hóa… để sinh tồn, phát triển[1].
Vào thời tiền sử và sơ sử, cùng với sự trưởng thành về văn hoá, ý thức dân tộc,
các dân tộc Đông Nam Á vừa tiếp nhận những giá trị văn hoá truyền thống riêng,
chung của toàn thể khu vực vừa thu nhận, cải biến những ảnh hưởng văn hoá, giá
trị văn minh từ bên ngoài. Con đường tiếp nhận và truyền tải văn hoá đó luôn gắn
liền với quá trình tái tạo, sáng tạo trong một tâm thế rộng mở. Nằm trên tuyến
giao lưu và hội tụ giữa các nền văn minh lớn của thế giới phương Đông, cư dân
Đông Nam Á đã cùng nhau chia sẻ nhiều giá trị văn hoá chung với các nền văn
minh khu vực cũng như thế giới.
Là cộng
đồng các quốc gia đa dân tộc, phân bố trên một khu vực địa lý rộng lớn, địa
hình luôn bị chia cắt bởi các dãy núi, thung lũng, hệ thống sông và biển cả…với
sự đa dạng về văn hoá, nguồn gốc tộc người, cơ sở kinh tế, Đông Nam Á là một phức hợp đa dạng. Nhưng từ trong những phức hợp
đa dạng đó, các xã hội Đông Nam Á đã tự tạo cho mình những bản sắc văn hóa
riêng. Rõ ràng là, đã đến lúc Đông Nam Á, với những giá trị sáng tạo tính bản địa
và nền văn hóa hết sức phong phú, phải được nhìn nhận một cách chân thực, đánh
giá khách quan hơn. Cũng cần phải nói thêm rằng, là một khu vực có những giá trị
văn hoá độc đáo nhưng đồng thời cũng tích chứa nhiều đặc tính phát triển dị biệt
nên đã từ lâu, Đông Nam Á đã là chủ đề nghiên cứu thú vị và tranh luận sôi nổi
trong giới nghiên cứu khu vực cũng như quốc tế.[2]
Trước
đây, người ta thường hiểu tầm quan trọng lịch sử của Đông Nam Á chủ yếu là do
vị trí địa lý của nó. Khu vực này được coi là “hành lang”, “cầu nối”giữa
phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản...) và phương Tây (Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung Hải).
Thậm chí, cho đến gần đây trong khi xem xét những đóng góp về văn hoá và vai
trò lịch sử của Đông Nam Á, một số nhà nghiên cứu vẫn duy trì quan niệm “truyền
thống”tức chỉ coi Đông Nam Á là khu vực giữ vị trí như một “ngã tư
đường”của các cuộc tiếp giao văn hoá. Với cách hiểu và luận suy đó, Đông
Nam Á chỉ là “Thế giới Ấn hoá”hay “Thế giới Hoa hoá”hoặc đồng thời là sự
tích hợp của cả hai dạng thức trên. Quan niệm đó vừa không đầy đủ vừa có phần
sai lệch với thực tiễn lịch sử, bản chất xã hội, văn hoá Đông Nam Á.
Nhưng
bên cạnh đó, từ khoảng những năm 1960-1970, cùng với sự trưởng thành của ngành
Đông Nam Á học, một số học giả khu vực và quốc tế lại có khuynh hướng nhấn mạnh
đến những giá trị sáng tạo bản địa được biểu đạt như là những “yếu tố cội nguồn”,
“thuần chất Đông Nam Á”. Từ đó cũng có khuynh hướng đi tới việc coi nhẹ, thậm
chí phủ nhận những tác động, ảnh hưởng của môi trường văn hoá bên ngoài đặc
biệt là của văn minh Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Á và cả văn minh phương Tây đối với
sự hình thành, phát triển của các quốc gia khu vực. Dù sự tranh luận gay gắt giữa
một bên là những người theo thuyết Truyền bá luận (Diffusionism) chủ trương văn hoá Đông Nam Á là do bên ngoài truyền
tới và Thuyết bản địa luận (Autochtonism)
nhấn mạnh đến những nhân tố nội tại và năng lực sáng tạo của Đông Nam Á thì với
những thành tựu nghiên cứu hiện nay, có thể cho rằng, một cái nhìn cực đoan về
xã hội Đông Nam Á qua những biểu hiện cũng như bản chất của nó, đều xa lạ và
không phù hợp với thực tế lịch sử.
Có thể
nói, sự hình thành và phát triển của văn hoá Đông Nam Á đã diễn ra trong những
mối quan hệ, giao lưu, tương tác đa chiều. Hành trình lịch sử, văn hóa Đông
Nam Á cần phải được nhìn nhận ở ba cấp độ: Các
xã hội Đông Nam Á vừa có những giá trị sáng tạo, phát triển những giá trị sáng
tạo, vừa tiếp nhận những ảnh hưởng của các nền văn minh lớn đồng thời cũng vừa
đóng vai trò truyền nối và chủ động truyền bá văn hoá ra bên ngoài.
Dựa trên
những thành tựu nghiên cứu mới đặc biệt là những phát hiện mang tính bản địa
cùng sự trưởng thành về nhận thức khoa học của giới nghiên cứu khu vực, quốc tế,
có thể khẳng định rằng Đông Nam Á, với những giá trị riêng biệt, sáng tạo và
truyền thống lịch sử văn hoá lâu dài của nó, phải được coi là một trong những Trung tâm văn minh và là một trong những
Trung tâm thu - phát văn hoá lớn. Trên
phương diện kinh tế, với tiềm năng phong phú và hoạt động kinh tế đa dạng của
nó, Đông Nam Á còn là một Trung tâm kinh
tế quan trọng của châu Á. Trong nhiều thế kỷ, Đông Nam Á là một khu vực
kinh tế năng động, có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế phương
Đông và thế giới chứ không phải là “một khu chợ chuyên buôn bán hàng hoá nước
ngoài”[3].
Do vậy, về mặt xã hội và văn hóa, khi những ảnh hưởng của các nền văn minh bên
ngoài thâm nhập đến khu vực thì Đông Nam Á hoàn toàn không phải là “những xã hội
mông muội”. Đó là những xã hội có tổ chức và ở nhiều vùng đã có một truyền thống
văn hóa lâu đời, khá phát triển. Một cách tự nhiên, từ trong chính môi trường sống
tự nhiên và cả do sự gần gũi về vị trí địa lý, nhìn chung các nền văn hóa Đông
Nam Á đều có nhiều nét tương đồng với văn minh khu vực. Về điều kiện tự nhiên,
do có chỉ số duyên hải cao, tự trong bản chất, văn hóa và xã hội Đông Nam Á
luôn thể hiện tính năng động, khả năng thích ứng cao với những thách đố văn
hóa, chính trị từ bên ngoài. Trong tâm thế đó, “ngay từ thời tiền sử, nhất là từ
thời đại kim khí, với tính chất đại dương của địa hình và với sự phát triển khá
cao của nghề đi biển, cư dân Đông Nam Á đã truyền bá văn minh của mình về phía
Tây tới tận Magadasca, về phía Bắc tới tận Nhật Bản và về phía Đông tới tận
vùng đảo Thái Bình Dương”. [4]
Một số
nhà khoa học cũng cho rằng từ thời tiền sử, văn hoá Đông Nam Á đã có những liên
hệ với Ấn Độ. Điều có thể thấy được là, trong những hiện vật thuỷ tinh, mã não
và hạt chuỗi của văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh đã có những hoạ tiết trang trí vẽ
màu giống như phong cách Ấn Độ[5] . Huyền thoại về
nguồn cội, về nghĩa đồng bào và mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, đẻ ra trăm người
con..., theo nhà nghiên cứu Manomohan Ghosh thì rất giống với những ghi chép
trong sử thi Mahabharata của Ấn Độ[6]. Mặt khác, ảnh
hưởng của văn hóa Đông Nam Á đã không tự hạn chế trong phạm vi đơn vị hành
chính hiện nay mà đã mở rộng đến nhiều quốc gia khác ở khu vực Đông Á. Trên cơ
sở các cứ liệu khảo cổ học, nhân học GS. Hà Văn Tấn từng cho rằng: “ảnh hưởng của
văn hoá Đông Sơn lên phía Bắc, theo lưu vực sông Nguyên, sông Tương, đến đất Sở
là đã rõ ràng”[7].
Vào thời kỳ đầu của giai đoạn này, văn hoá Đông Nam Á đã đạt đến độ phát triển
rực rỡ và chính nhà Đông Phương học nổi tiếng người Nga D.V.Deopik đã gọi thế
kỷ V trước Công nguyên là “Thế kỷ của phương
Nam”. Trên nhiều phương diện, văn hóa Đông Nam Á đã có những ảnh hưởng rộng
lớn, vượt rất xa ra ngoài những quốc gia láng giềng[8].
Đánh giá
về vị thế của văn hoá Đông Nam Á, Trong công trình: “Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học - Văn minh Nhật Bản trong bối cảnh thế giới”, học giả Nhật Bản Tadao
Umesao cho rằng: Đông Nam Á là một khu vực
văn minh. Tương tự như vậy, với cách nhìn khách quan, trong tác phẩm “Nghiên cứu lịch sử - Một cách thức diễn giải”,
nhà nghiên cứu lịch sử văn hoá nổi tiếng thế giới Arnold Toynbee cũng đưa ra một
nhận xét rất đáng chú ý về vị thế của “văn minh Việt Nam”trong mối liên hệ và
tương tác với văn minh Trung Hoa và khu vực. Tác giả cho rằng: “Có một mối liên
hệ gần gũi hơn nhiều giữa một bên là văn minh Trung Hoa với một bên là các nền
văn minh Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Ba nền văn minh này mô phỏng văn
minh Trung Hoa nhưng đã vay mượn văn minh Trung Hoa theo những con đường
riêng biệt khá đặc trưng, khiến cho người ta có quyền coi chúng là những nền
văn minh riêng biệt - thuộc vào một phân loại (sous-classe) mà chúng ta có thể gọi là những “Văn minh vệ tinh”(Civilisations satellites), đối lập với những
nền văn minh độc lập như nền văn minh Trung Hoa, phương Tây cũng như những nền
văn minh cổ Hy Lạp và Syrie có họ hàng với văn minh phương Tây”[9].
Quan điểm của hai học giả tuy có những khác biệt nhất định khi nhìn nhận về vị
thế và đặc tính của văn hóa Đông Nam Á nhưng đều tôn vinh những giá trị văn hoá
điển hình của Đông Nam Á và coi đó là một khu vực văn minh đồng thời luôn đặt
văn minh Đông Nam Á trong nền cảnh và sự tương tác với các nền văn minh khác
trên thế giới.
Với quan
niệm văn minh Đông Nam Á là một bộ phận hợp thành của văn minh thế giới, có thể
thấy hầu hết các nền văn hoá, văn minh lớn trên thế giới đều được hình thành,
phát triển dọc theo lưu vực các dòng sông. Chính nguồn nước vô tận của các
dòng sông đã sinh tạo và nuôi dưỡng nền các nền văn minh lớn thời cổ đại từ
văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà đến Ấn Độ, Trung Hoa... Các nền văn minh đó chắc chắn
không thể hình thành sớm và phát triển rực rỡ nếu không được nguồn nước vô tận
và phù sa của các dòng sông bồi đắp[10]. Như một quy
luật tất yếu, các nền văn minh hình
thành dọc theo lưu vực các dòng sông đều là các nền Văn minh nông nghiệp, hoạt động kinh tế chủ yếu là kinh tế nông
nghiệp.
Cùng
chia sẻ một số đặc tính trong quá trình kiến lập văn hóa, văn minh tương tự như
các nền văn minh cổ đại trên thế giới, hầu hết các nền văn hoá Đông Nam Á đều
được thành tạo ở lưu vực các dòng sông. Nhiều quốc gia trong khu vực đã tìm thấy
năng lực phát triển, sáng tạo của mình từ nguồn nước phong phú và sự bồi tụ của
các hệ thống sông như: Mekong, Hồng Hà, Thu Bồn, Chao Phraya, Irrawady hay
Jambi… Đây là những quốc gia được hình thành sớm ở Đông Nam Á, đóng vai trò đặc
biệt quan trọng trong tiến trình phát triển chung của toàn thể khu vực. Nguồn nước và phù sa của các con sông
không chỉ nuôi dưỡng các nền kinh tế, các trung tâm văn hoá mà còn quy định
nên những đặc tính xã hội, tâm lý, sinh hoạt văn hóa tiêu biểu của các quốc gia
trong khu vực. Văn hóa Đông Nam Á luôn giàu đậm chất sông nước.
Mặc dù
cho đến nay, vết tích của cây lúa nước tìm được ở Đông Nam Á tương đối muộn
so với hai trung tâm nông nghiệp lớn của châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc (đặc biệt
là khu vực Trường Giang) nhưng Đông Nam Á vẫn được coi là một trong những Trung
tâm nông nghiệp sớm của thế giới. Nền tảng kinh tế của hầu hết các quốc gia
trong khu vực là kinh tế nông nghiệp. Dù cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học
về sự xuất hiện sớm / muộn của các loài cây lương thực ở Đông Nam Á là cây cho
củ (mà chủ yếu là các giống khoai nước) hay lúa cạn (lúa khô dry rice), lúa nước (water rice) tuy vẫn chưa thể đạt đến sự
đồng thuận tuyệt đối nhưng lúa nước vẫn được coi là cây lương thực chính,
là nền tảng kinh tế để từ đó “triển nở”các trung tâm văn hóa đồng thời hình
thành nên những đặc tính tiêu biểu trong truyền thống văn hoá Đông Nam Á.[11]
Từ truyền
thống canh tác lúa nước giàu đậm chất văn hoá tuân theo sự chuyển vận của lịch
trăng, nhiều nhà khoa học đã nâng tầm văn hoá của cư dân trồng lúa Đông Nam Á
và gọi đó là “Văn minh lúa nước”. Nền
văn minh đó chứa đựng trong bản thân nó bản sắc, bản tính tiêu biểu của văn
minh khu vực. Bản sắc đó, theo cách hiểu của GS. Trần Quốc Vượng, chính là
căn cước để hiểu đồng thời là để định dạng, nhận dạng văn minh Đông Nam Á trong
thế giới đa dạng của văn minh, văn hoá thế giới.
Cư dân
Đông Nam Á sớm biết và có kỹ năng khai phá các châu thổ nhưng đồng thời cũng sớm
biết khai hoang, lấn biển và phát triển ruộng bậc thang, đưa cây lúa nước lên
các sườn đồi. Trên thực tế, quá trình khai phá đó có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc mở rộng diện tích đất canh tác và giải quyết vấn đề lương thực cơ bản
ngay tại chính các tiểu vùng cũng như mỗi thôn, bản và các hộ nông dân với tư
cách là đơn vị xã hội và tổ chức sản xuất nhỏ nhất. Với ý nghĩa đó, tư duy nông nghiệp, khả năng chinh phục, hòa
nhập với thế giới tự nhiên của cư dân Đông Nam Á đã phát triển sớm và đạt trình
độ cao. Điều có thể nhận thấy là, ở Đông Nam Á ruộng lúa nước đã xuất hiện ở
tất cả mọi địa vực: đồi núi, trung du, đồng bằng và cả vùng ven biển. Đó là các
khu vực Địa - kinh tế có nhiều điểm chung nhưng cũng rất riêng giữa các phân
vùng hay tiểu vùng Đông Nam Á.
Tuy
nhiên, trên các đảo quốc và nhiều vùng thảo nguyên hay trong các thung lũng của
các cánh rừng mưa nhiệt đới, một bộ phận không nhỏ cư dân Đông Nam Á cũng đã
sớm thể hiện năng lực thích ứng với môi trường sống của mình. Họ đã chọn lọc,
lai tạo nên nhiều giống cây lương thực khác nhau. Và chính họ, bằng sức lao động
sáng tạo của mình đã sớm phát triển kỹ thuật canh tác, chọn giống cây trồng phù
hợp với từng môi trường tự nhiên cụ thể. Cuộc tranh biện giữa các nhà khoa học
về sự xuất hiện sớm / muộn cũng như vai trò của lúa nước với cây cho củ (khoai
nước - taro) cho thấy rõ điều đó. Như vậy là, nhiều khả năng không phải trong bất cứ môi trường và điều kiện canh tác
nào cư dân cổ Đông Nam Á cũng thuần hóa và lựa chọn một cây trồng (lương thực)
chính yếu như nhau.
Bên cạnh
đó, cũng phải thấy rằng, trong các không gian sinh tồn đa dạng của Đông Nam Á,
ngay cả các cư dân nông nghiệp vùng khô, đất canh tác hạn hẹp, điều kiện canh
tác khó khăn do hiếm nước, con người cũng đã biết dựa vào tự nhiên và khai
thác triệt để những tiềm năng tự nhiên để duy trì, phát triển cuộc sống của
mình. Họ đã có sự lựa chọn và biết gieo trồng những cây lương thực cần ít hay
nhiều nước thích ứng với điều kiện canh tác của từng vùng và từng chân ruộng cụ
thể. Họ cũng phát triển kỹ thuật làm ruộng bậc thang, dùng biện pháp “đao canh thuỷ nậu”, “đao canh hoả chủng”để tăng độ phì cho đất
đồng thời tích cực xây dựng hệ thống thuỷ nông trên quy mô lớn để bảo vệ cuộc sống
và mở rộng diện tích đất gieo trồng [12]. Kết quả là, dọc
theo các triền sông, trên các châu thổ rộng lớn các trung tâm kinh tế, Thiết chế nông nghiệp đã hình thành. Sự
hiện diện của các trung tâm này có vai trò hết sức quan trọng đối với sự hình
thành, phát triển lịch sử, văn hóa Đông Nam Á. Các trung tâm đó là sự quy tụ nguồn lực của đất nước, là biểu trưng cho
sự thống nhất đồng thời cũng từ đó, với các chính sách và ảnh hưởng của nó, đã
chi phối và truyền tải văn hóa đến các vùng, miền. Đó chính là diễn tiến cơ
bản đồng thời là mô hình phổ quát trong quá trình hình thành, phát triển của
các quốc gia khu vực. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, dù kinh tế luôn có vai
trò quan trọng, với tư cách là nền tảng thiết yếu, nhưng sự hình thành, phát
triển của một nhà nước không thể chỉ dựa vào kinh tế hay chỉ là kinh tế nông
nghiệp mà là sự kết tụ hằng xuyên của tất cả các tiềm năng kinh tế cũng như sức
mạnh văn hóa, xã hội và tôn giáo. Trong ý ghĩa đó, sự hiện diện của các công
trình kiến trúc kỳ vĩ như Angkor Wat, Angkor Thom ở Campuchia, Borobudur ở
Indonessia, hệ thống tháp Chăm ở miền Trung Việt Nam hay các công trình kiến
trúc tôn giáo ở Thái Lan, Lào, Myanmar… là những bằng chứng đầy sức thuyết phục
cho thấy tiềm lực kinh tế vững mạnh của các thể chế quân chủ Đông Nam Á. Nói
cách khác, kinh tế không chỉ là nhân tố
quan trọng bảo đảm nguồn sống của cư dân Đông Nam Á mà còn là một trong những nền
tảng để phát triển văn hóa, tôn giáo, thể hiện quyền uy của triều đại và các đấng
quân vương.
Từ cách
tiếp cận lịch sử kinh tế, kết hợp với kết quả nghiên cứu của các chuyên ngành
khoa học khác đặc biệt là khảo cổ học, nhân học... có thể khẳng định rằng tính
đa dạng của văn hoá Đông Nam Á không chỉ được thể hiện trên bình diện khu vực
mà còn hiện diện trong đời sống văn hoá của mỗi quốc gia và cả trong từng không
gian văn hoá tộc người. Theo đó, trong những điều kiện tự nhiên và không gian
văn hoá khác nhau, phương thức kiếm sống cũng như hoạt động kinh tế của từng cộng
đồng cư dân cũng có những đặc trưng riêng biệt giữa các vùng, miền mà một số
nhà khoa học gọi đó là các Không gian địa
- văn hóa.
Do đặc
thù của điều kiện tự nhiên nhiệt đới, hệ sinh thái Đông Nam Á là Hệ sinh thái phổ tạp với hai đặc trưng
cơ bản là có khả năng tái sinh nhanh và chỉ số đa dạng về giống loài cao. Đặc
trưng đó, một cách tự nhiên, đã sản sinh ra khả năng tự điều tiết và thích ứng
khá cao với môi trường sống của cư dân Đông Nam Á. Hệ quả là, cư dân Đông Nam
Á nhìn chung ít khi bị đẩy vào tình trạng khan hiếm lương thực một cách gay gắt
và kéo dài. Theo cách hiểu của GS. Trần Quốc Vượng thì cư dân Đông Nam Á,
ngay cả các cư dân nông nghiệp vùng khô, đã “không nghèo như chúng ta tưởng”.
Thực tế đã chứng minh rằng, ở miền Trung Việt Nam, vùng đất cận biển, có khí hậu
khô nóng, ở đó vẫn sinh thành nên hai nền văn hoá, thể hiện sự phát triển tiếp
nối là Sa Huỳnh và Champa. Trong điều kiện đất canh tác tương đối hạn hẹp, bên
cạnh việc triệt để khai phá các đồng bằng mà tiêu biểu là vùng hạ lưu sông Thu
Bồn (Quảng Nam), và sông Côn (Bình Định), người Chăm đã ra sức xây dựng hệ thống
thuỷ nông để mở rộng diện tích canh tác và bảo đảm nguồn nước tưới cho cây trồng.
Được coi là một Thể chế biển
(Maritime polity) điển hình của Đông Nam Á nhưng kinh tế nông nghiệp Champa vẫn
đóng vai trò hết sức quan trọng. Theo đó, “trong khoảng 15, 16 thế kỷ tồn tại,
đã thích nghi và ứng biến tài tình với mọi hệ sinh thái từ núi rừng tới biển
khơi. Cái ý kiến cho rằng văn hoá Champa chỉ là văn hoá biển, thậm chí cho rằng
người Chăm chỉ là bọn cướp biển (pirates
de mer) là một ý kiến quá cũ kỹ và sai lầm từ căn bản”[13].
Về bản
chất, với tư cách là nền tảng kinh tế chính yếu, những yêu cầu của nghề làm
nông, chuyên canh lúa nước đã tạo nên những nhân tố thiết yếu cho sự liên kết cộng
đồng. Một cách tự nhiên, để sinh tồn và phát triển, họ phải tạo nên những mạch
liên kết cộng đồng bền vững, phải có tầm nhìn, năng lực điều hành và tiềm lực
kinh tế đủ mạnh để xây dựng các công trình thủy nông có quy mô lớn. Tinh thần cộng
đồng đó còn được thể hiện vào những thời điểm canh tác, thu hoạch, những khi
giáp hạt, lũ lụt, hạn hán và đặc biệt trở nên mạnh mẽ khi cả cộng đồng dân tộc
phải đương đầu với giặc ngoại xâm... Trong bối cảnh đó, tinh thần cộng đồng có
thể phát triển thành Tinh thần dân tộc
và Chủ nghĩa yêu nước.
Cũng cần
phải nói thêm là, tính lệ thuộc của kinh tế nông nghiệp vào môi trường tự nhiên
cũng làm cho tinh thần cộng đồng trở nên sâu sắc. Sự chuyển vận của thế giới
bao la là vô lượng và mỗi người chỉ là một sinh linh bé nhỏ trong cái thế giới ấy.
Mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt cũng là nhờ ơn trời. Nhưng sau những năm
“hòa cốc vui ca”lại là những năm mất mùa liên tiếp. Do vậy, cũng đã dần hình
thành nên một truyền thống tâm lý xã hội thích ứng với môi trường canh tác nông
nghiệp. Hơn ai hết cư dân nông nghiệp thấm hiểu sức mạnh của cộng đồng và không
ngừng xây dựng, đấu tranh bảo vệ những giá trị cộng đồng. Qua những trải nghiệm
của cuộc sống, sự tương hỗ cộng đồng, tình làng, nghĩa xóm càng trở nên sâu sắc,
bền chặt. Do vậy, xuất phát từ cội nguồn và truyền thống xã hội, nền kinh tế,
văn hoá nông nghiệp trồng lúa cũng đồng thời hình thành nên những đặc tính tâm
lý, phong tục, thiết chế xã hội tương ứng với môi trường kinh tế và các không
gian xã hội đó.
Mặc dù
kinh tế trồng trọt luôn được coi trọng nhưng với tư cách là một bộ phận hợp
thành của kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi cũng luôn giữ vai trò chính yếu. Tuy
nhiên, do điều kiện tự nhiên bị chia cắt, thiếu những thảo nguyên lớn, môi trường
khí hậu lại thường xuyên biến động với thời tiết nóng ẩm… nên động vật dễ bị dịch
bệnh hơn thế Đông Nam Á không phải là địa bàn lý tưởng để phát triển chăn nuôi
đại gia súc trên quy mô lớn. Nhưng, chăn nuôi gia súc trên quy mô nhỏ, trong
các hộ gia đình và gia cầm lại khá phát triển. Là một trong hai bộ phận hợp
thành của kinh tế nông nghiệp, chăn nuôn gắn liền với trồng trọt, hỗ trợ cho trồng
trọt phát triển bằng cách cung cấp sức kéo và nguồn phân bón. Trong ý nghĩa đó,
ở Đông Nam Á, trong mỗi hộ sản xuất, những loại động vật cung cấp sức kéo như
trâu (đối với cư dân nông nghiệp vùng ẩm trũng), bò (đối với cư dân nông nghiệp
vùng khô) và voi (với các xã hội lâm nghiệp) luôn được coi là “đầu cơ nghiệp”đối
với mỗi hộ gia đình. Ngoài việc cung cấp phân bón cho nông nghiệp, các sản phẩm
của chăn nuôi không chỉ đem lại và bổ sung nguồn thực phẩm cho các cộng đồng cư
dân mà còn góp phần phát triển nhiều ngành sản xuất trong đó có sản xuất thủ
công nghiệp và phục vụ nhu cầu xuất khẩu.
Nhìn
chung, cho đến thế kỷ XVI khi các nước phương Tây bắt đầu xâm nhập đến Đông Nam
Á, cấu trúc xã hội nông nghiệp vẫn ít diễn ra những biến đổi lớn. Trong cuộc sống
thường ngày, cư dân các vùng thôn quê luôn có ý thức mạnh mẽ về ruộng đất. Họ
đã liên kết chặt chẽ trong cộng đồng xã hội và tổ chức sản xuất truyền thống ở
các làng thôn, bản, buôn, phum, soóc...
Cùng với
kinh tế nông nghiệp, ở Đông Nam Á, cũng khá phát triển. Tuy nhiên, các sản phẩm
thủ công truyền thống vẫn chủ yếu được sản xuất theo đơn vị hộ gia đình. Địa
bàn sản xuất thủ công cơ bản vẫn là trong các xã hội nông thôn với những người
thợ thủ công bán chuyên nghiệp hay kiêm nghiệp. Họ đã tranh thủ sản xuất thủ
công những lúc nông nhàn. Vì lẽ đó, trong một thời gian khá dài người ta thường
cho rằng, với Đông Nam Á, kinh tế công thương trên thực tế chỉ là những “nghề
phụ”hỗ trợ cho nghề chính là nông nghiệp. Nói cách khác, các ngành kinh tế đó
chỉ để nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa “tự cung tự cấp”hay phân phối
theo phổ hẹp. Quan niệm đó tương đối đúng trong một cái nhìn tổng quát về kinh tế
Đông Nam Á.
Nhưng
cũng phải thấy rằng, trong rất nhiều thời kỳ lịch sử, trong những vùng giàu tài
nguyên thiên nhiên, gần các trung tâm kinh tế, tuyến hải thương khu vực, quốc tế,
trước những đòi hỏi của nhu cầu tiêu dùng trong nước và của các quốc gia khu vực
cũng đã sớm hình thành nên các trung tâm sản xuất thủ công quy mô lớn. Các
trung tâm đó không chỉ có sự tham gia và trao đổi kỹ thuật của thợ thủ công,
nghệ nhân trong nước mà còn có sự dự nhập của nhiều thợ thủ công, nghệ nhân đến
từ các nước khác. Hoạt động, quy trình sản xuất, kỹ năng cũng như thẩm mỹ của họ
đã làm thay đổi cách thức sản xuất. Một cách tự nhiên, quá trình sản xuất đó đã
góp phần quốc tế hóa các sản phẩm vốn chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Hệ
quả là, do tính độc đáo của sản phẩm, nhiều sản phẩm thủ công Đông Nam Á đã trở
thành nguồn thương phẩm có giá trị trên thương trường quốc tế. Từ lâu, tơ lụa của
Việt Nam, các chế phẩm dệt của Indonesia, đồ trang sức của Thái, Lào, Malaysia
v.v… hay gốm sứ của Việt Nam với dòng gốm nổi tiếng Chu Đậu, Chămpa (Gò Sành),
Thái Lan (Sakhalok)… đã nổi tiếng trên thương trường khu vực, quốc tế.
Tuy
nhiên, như đã trình bày ở trên, trong bốn khu vực của châu Á, Đông Nam Á là nơi
có chỉ số duyên hải ISCL (Index of Sea
Coastal Line) cao và là vùng địa lý có chỉ số duyên hải cao nhất thế giới.
Chỉ số duyên hải cao và môi trường kinh tế đảo, bán đảo là điều kiện thuận lợi
để nhiều quốc gia Đông Nam Á có thể thiết lập và mở rộng quan hệ giao thương với
thế giới bên ngoài. Hơn nữa, do có vị trí địa lý nằm giữa hai nền văn minh lớn
nhất của phương Đông là Trung Quốc và Ấn Độ nên Đông Nam Á cũng đồng thời là cầu
nối giữa hai trung tâm văn minh và hai nền kinh tế lớn này. Do vậy, từ rất sớm,
song song với các thể chế nông nghiệp, ở Đông Nam Á đã hình thành những quốc
gia lấy kinh tế công thương đặc biệt là hải thương làm cơ sở kinh tế chính yếu.
Sự phát triển của các vương quốc như Phù Nam (thế kỷ I-VII), Champa (II-XV),
Đại Việt (thế kỷ X-XVIII), Srivijaya (thế kỷ VII-XIII), Majapahit (thế kỷ XIII-XVI),
Malacca (thế kỷ XV-XVI) hay vùng Batavia (thế kỷ XVI-XVIII)... là những minh chứng
cho quan điểm đó.
Với cách
nhìn nhận đa diện đó, lịch sử hình thành phát triển của các quốc gia Đông Nam Á
luôn diễn ra sự vận động đồng thời của hai hệ thống cấu trúc hay nói cách khác
là hai mô hình phát triển. Đó là, “Quốc
gia nông nghiệp”và “Quốc gia thương
nghiệp”. Phần lớn những “Quốc gia
nông nghiệp”được hình thành ở vùng Đông Nam Á lục địa, ở miền trung hay hạ
lưu của các dòng sông. Trong khi đó, các “Quốc
gia thương nghiệp”đều hình thành ở vùng hải đảo, hoặc những khu vực ven biển.
Đây là nơi có vị trí giao thương thuận tiện và cũng không quá xa cách các “Quốc gia nông nghiệp”. Thực tế lịch sử
cũng chứng minh rằng, các quốc gia thuộc hai mô hình phát triển này không tồn tại
biệt lập mà luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động, tương hỗ với nhau. Những “Quốc gia nông nghiệp”cung cấp nông phẩm
cùng các mặt hàng xuất khẩu cho “Quốc gia
thương nghiệp”. Ngược lại, “Quốc
gia thương nghiệp”có chức năng tiêu thụ các nguồn nông phẩm và cung cấp trở
lại những sản phẩm thủ công, nguyên liệu và nhiều chế phẩm xa xỉ khác từ thị trường
khu vực và thế giới.
Với tư
cách là một vương quốc hình thành ở vùng eo biển có vị trí giao thương quan
trọng nhất của châu Á, quan hệ thương mại của Malacca - Một thế chế biển, với nhiều quốc gia nông nghiệp Đông Nam Á là bằng
chứng điển hình về mối liên kết giữa hai loại hình Nhà nước nông nghiệp và Nhà
nước thương nghiệp. Điều đáng chú ý là, đặc tính nông nghiệp hay thương
nghiệp của các mô hình nhà nước nêu trên chỉ là cái nhìn tổng quát. Thực ra, kinh tế nông nghiệp hay thương nghiệp không
bao giờ giữ vai trò độc tôn trong các xã hội Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói
chung. Hơn thế nữa, trong mỗi mô hình phát triển, ở những giai đoạn lịch sử
nhất định, do nhiều nguyên nhân và tác động của lịch sử, mà kinh tế nông nghiệp
hay thương nghiệp có thể giữ vai trò chủ đạo. Trong quá trình phát triển,
vương quốc Srivijaya trên đảo Sumatra được coi là một Thể chế biển điển hình của Đông Nam Á. Kinh tế hải thương đóng vai
trò nổi bật nhưng vương quốc này cũng luôn có mối liên hệ mật thiết với các
trung tâm nông nghiệp trên đảo Sumatra. Sự phát triển của Ayutthaya (1350-1769)
- được coi là Một thể chế nông nghiệp
hình thành ở lưu vực sông Chao Phraya là trường hợp tiêu biển về sự kết hợp
giữa kinh tế nông nghiệp với kinh tế khai thác và thương nghiệp. Do có vị trí
địa lý thuận lợi, tiềm năng kinh tế mạnh và chính sách năng động, Ayutthaya
cũng đã tự mình trở thành một cường quốc thương nghiệp ở Đông Nam Á. Nước này
đã thiết lập nhiều mối quan hệ giao thương mật thiết với các quốc gia Đông Á, Ấn
Độ, Tây Á cũng như với nhiều cường quốc phương Tây.
2. Thể chế chính trị và cấu trúc quyền lực
Không chỉ
trong đời sống xã hội và văn hoá, thiết chế chính trị Đông Nam Á cũng luôn thể
hiện những dạng thức đặc thù của các Xã hội
nông nghiệp. Trên cơ sở sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa và một số nhân tố xã hội khác, đến những
thế kỷ trước sau Công nguyên, các vương quốc cổ đại đã từng bước hình thành với
chức năng chủ yếu là điều hành nền kinh tế canh tác lúa nước và xây dựng, quản
lý hệ thống thuỷ nông. Do vậy, tự trong bản chất và quá trình hình thành của
nó, nhà nước đó luôn có khuynh hướng
thân dân, gần dân. Viết về vai trò và chức năng quản lý của các quốc gia
khu vực, nhà Đông Nam Á học nổi tiếng Anthony Reid cho rằng, các nhà nước đó
có đặc thù là “Nền quản trị đạo đức”(the
Moral authority)14[14].
Có thể gọi mô hình nhà nước đó là Nhà nước chức năng. Sự xuất hiện của
loại hình Nhà nước chức năng là một
trong những nét đặc thù của lịch sử và truyền thống chính trị Đông Nam Á.
Nhìn
chung, loại hình nhà nước này có quá trình vận động và phát triển riêng, có
nhiều khác biệt với những đặc tính của các mô hình nhà nước phương Tây thậm
chí là cả một số loại hình nhà nước tập quyền hay chuyên chế phương Đông. Cụ
thể hơn, trên phương diện chính trị - xã
hội, một trong những chức năng chủ yếu của các nhà nước Đông Nam Á là xử lý mối
quan hệ giữa trung ương với địa phương, giữa sự tập trung quyền lực và duy trì
các lợi ích cố hữu của địa phương, công xã. Có thể coi đây là mối quan hệ lưỡng hợp. Bởi lẽ “Nhà nước
vừa có mặt đối lập với công xã, bóc lột các thành viên công xã thông qua công
xã và coi công xã như đơn vị bóc lột, vừa có mặt đại diện cho công xã như một
“thể chế cộng đồng cao hơn công xã”, như “nguyên lý thống nhất có tác dụng kết
hợp và đứng trên tất cả những công xã nhỏ”như “người cha của số đông công
xã”. Mối quan hệ vừa liên kết vừa đối lập đó luôn được thắt chặt thêm trong
yêu cầu chống ngoại xâm và chống thiên tai”[15].
Nếu so sánh, có thể coi mô hình nhà nước phương Tây là Nhà nước thống trị,
ra đời từ kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, sự phân lập về địa vị
kinh tế giữa các giai cấp và mâu thuẫn giai cấp đã đến mức gay gắt. Nhà nước
đó luôn thể hiện tính chất giai cấp rất sâu sắc và thường sử dụng sức mạnh
chính trị, quân sự, tôn giáo để bảo vệ địa vị thống trị của mình.
Trong những
điều kiện lịch sử và xã hội riêng biệt, sự hình thành và phát triển của các quốc
gia Đông Nam Á vừa là kết quả của một quá trình vận động, chuyển hóa lâu dài của
những nhân tố nội sinh, động lực nội tại vừa chịu tác động và chủ động đón nhận
những ảnh hưởng từ những dòng văn hoá, trung tâm văn minh lớn bên ngoài. Do sự
gần gũi về vị trí địa lý, lại nằm ở nơi giao tiếp giữa hai trung tâm văn minh lớn
là Ấn Độ và Trung Quốc, ngay từ thời lập quốc các quốc gia Đông Nam Á vừa chịu ảnh
hưởng vừa chủ động, tích cực đón nhận nhiều giá trị và thành tựu tiêu biểu của
các nền văn minh này. Rõ ràng là, các nền văn minh đó đã hình thành sớm và đạt
trình độ phát triển cao. Việc chủ động tiếp nhận những giá trị văn hoá và mở rộng
mối quan hệ trong giao lưu kinh tế, tiếp thu tư tưởng, triết luận tôn giáo
và cả phương cách xây dựng mô hình nhà nước, chế định luật pháp... là những
minh chứng đầy sức thuyết phục cho thấy bản
lĩnh, bản tính năng động và năng lực tiếp nhận các giá trị văn hoá tiêu biểu của các quốc
gia Đông Nam Á.
Trong lịch sử, nhiều vương quốc cổ Đông Nam Á đã tiếp
thu tinh thần và nguyên tắc biên soạn luật pháp của “Thiên Trúc”(Ấn Độ). Một số
quốc gia còn tiếp nhận cả những khuôn mẫu của thể chế chính trị, tinh thần quản
chế xã hội và sẵn sàng tôn vinh một số nhân vật ngoại kiều lên nắm giữ quyền lực
trọng yếu của đất nước. Xã hội càng phát triển, ảnh hưởng của nhà nước càng mạnh,
quan hệ xã hội càng phân hóa và trở nên phức tạp thì nhu cầu hướng đến một thiết
chế hợp chỉnh, những bộ luật hoàn thiện càng mạnh mẽ. Điều đáng chú ý là, mặc
dù luôn được coi là quy định chung cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội hay
“Luật quốc gia”nhưng nhìn chung các bộ luật (hay luật tục) truyền thống của
Đông Nam Á đều luôn chú ý đến việc bảo vệ những lợi ích, đặc quyền của giai cấp
thống trị hay các thế lực tôn giáo. Những điều khoản về việc bảo vệ tài sản, về
quyền lực đối với nô lệ được đặc biệt coi trọng. Hiển nhiên, cũng giống như nhiều
bộ luật nổi tiếng trên thế giới, những tầng lớp xã hội bên dưới, những “kẻ tiện
dân”nếu vi phạm luật pháp thì đều bị trừng phạt vô cùng hà khắc. Nói cách khác,
cũng như chính trị, quân sự… luật pháp luôn là công cụ của kẻ mạnh và bảo về lợi
ích của những người quyền thế[16].
Trong cuộc giao hòa giữa các xu thế phát triển và
thích ứng văn hóa đó, điều có thể khẳng định là, trên cơ sở những nền tảng văn
hoá, xã hội đã đạt đến trình độ phát triển nhất định mà các quốc gia Đông Nam Á
mới có thể lĩnh hội và tiếp nhận những giá trị văn hoá, tinh thần luật pháp,
cách thức xây dựng thể chế nhà nước cũng như tiếp thu các thiết chế xã hội từ
bên ngoài. Những giá trị văn hóa nguồn cội đó vốn đã được hình thành sớm và đạt
trình độ phát triển nhất định trong diễn tiến lịch sử Đông Nam Á. Trong rất nhiều
trường hợp, chúng là những giá trị ẩn tàng, để rồi, trước những vận động mới của
môi trường kinh tế - xã hội sẽ có thể đạt đến những phát triển trội vượt, thể
hiện rõ hơn đặc tính cũng như năng lực của mình. Trong quá trình tiếp nhận,
chuyển giao và sáng tạo đó nhìn chung các quốc gia Đông Nam Á đã không chối từ
(non refuse) các giá trị văn hóa khác biệt, trội vượt từ bên ngoài.
Trong ý nghĩa đó, các giá trị văn hoá Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Á... đã hòa nhập và
trở thành một bộ phận trong di sản văn hoá của Đông Nam Á. Những
nhân tố mang tính khu vực và quốc tế đó không chỉ làm phong phú, sâu sắc thêm
các giá trị văn hoá của mỗi dân tộc mà còn có ý nghĩa thúc đẩy tiến trình phát
triển của các quốc gia khu vực. Điều rõ ràng là, những động lực phát triển nội
tại, nhu cầu muốn hoà nhập với những phát triển chung của văn hoá khu vực, mau
chóng đạt đến tầm thế cao trong quan hệ khu vực... là nhu cầu tự thân đồng thời
cũng là động lực mạnh mẽ của không ít quốc gia Đông Nam Á.
Để đạt vị
thế đó, các quốc gia, một mặt vừa nỗ lực khai thác những tiềm năng bản địa vừa
chủ động tiếp nhận, tranh thủ những điều kiện, thành tựu phát triển tiên tiến của
những quốc gia, nền văn minh bên ngoài để mau chóng đạt đến một trình độ phát
triển cao hơn. Điều có thể thấy được là, quan hệ giữa các quốc gia Đông Nam Á
với các nền văn minh lớn không bao giờ là dòng chảy đơn tuyến. Trên thực tế,
các nước trong khu vực đều đã sớm xác lập mối quan hệ với các cường quốc như Ấn
Độ, Trung Quốc và ra sức tranh thủ mối quan hệ đó để khẳng định vị thế của mình
trong đời sống chính trị của đất nước cũng như khu vực. Nói cách khác, việc
xác lập được các mối quan hệ mật thiết với các đế chế, trung tâm văn minh lớn
đã tạo nên uy lực và vị thế cao, vững chắc cho các thể chế chính trị Đông Nam Á
trong việc xử lý các mối quan hệ khu vực cũng như các vấn đề trong nước. Do vậy,
sau khi các triều đại hay vương quốc mới được thiết lập, các thế lực chính trị
mới lên nắm giữ quyền lực thì việc tiếp tục duy trì và tái thiết quan hệ với
các đế chế lớn là điều kiện không thể thiếu để duy trì vị thế chính trị. Trong
lịch sử, vào thời cổ trung đại, nhiều quốc gia Đông Nam Á trong đó kể cả những
Đế chế khu vực (Regional empires) như:
Đại Việt, Champa, Phù Nam, Chân Lạp, Srivijaya, Majapahit, Ayutthaya... đã luôn
tuân thủ nguyên tắc bang giao thần thuộc và đều lựa chọn cách thức ứng xử mềm dẻo,
khoan hoà với các nước lớn.
Trong
quá trình hình thành và phát triển, so với các xã hội khác ở phương Đông như
Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc (nơi các nhà nước sơ khai đều được hình thành từ
Thiên niên kỷ thứ IV-III TCN) thì về mặt thời gian các quốc gia Đông Nam Á đều
ra đời tương đối muộn. Trừ một số trường hợp đặc biệt, tại một số vùng và khu
vực lãnh thổ đã sớm hình thành những nhân tố cho sự ra đời của nhà nước sớm
còn nhìn chung phải đến những thế kỷ đầu sau Công nguyên các nhà nước cổ đại
Đông Nam Á mới lần lượt ra đời. Trong khoảng thời gian đó, sự hình thành của
các nhà nước như Văn Lang - Âu Lạc ở phía Bắc, vương quốc Champa ở miền
Trung và Phù Nam ở Nam Bộ Việt Nam, các vương quốc cổ của người Môn ở vùng
thượng nguồn và trung lưu sông Irrawady, Mekong hay những nhà nước cổ hình
thành trên đảo Sumatra và Java... có thể coi là những dạng thức phát triển sớm
của Đông Nam Á. Sự ra đời của các vương quốc này, với những hoạt động kinh tế,
văn hoá và ảnh hưởng chính trị của nó không chỉ có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc tạo dựng nền tảng cho sự hình, phát triển của nhiều quốc gia Đông
Nam Á ở giai đoạn sau mà còn đặt những cơ sở thiết yếu cho sự hình thành đặc
tính lịch sử và nguyên tắc căn bản trong quan hệ bang giao giữa các quốc gia
trong khu vực nhiều thế kỷ sau đó.
Từ một
cái nhìn so sánh và dựa trên phương pháp nghiên cứu khu vực... có thể thấy
trong tiến trình lịch sử Đông Nam Á, trừ một số trường hợp ngoại lệ, các quốc
gia Đông Nam Á thường được hình thành trên những không gian tương đối nhỏ hẹp.
Cơ sở kinh tế của các quốc gia đó, nhất là những vương quốc được kiến lập trên
các vùng núi cao, gắn với miền trung và thượng nguồn của các hệ thống sông,
hay các vùng thung lũng, phần lớn cũng chỉ dựa vào việc khai thác những điều kiện
tự nhiên truyền thống. Do vậy, vì nhiều nguyên nhân tự nhiên cũng như xã hội,
những tác động khách quan và chủ quan, các nhà nước sớm ở Đông Nam Á hầu hết
là những nhà nước nhỏ. Nhìn chung, do các nhà nước đều được hình thành trên những
không gian tương đối nhỏ hẹp, sự phân hóa xã hội chưa thực sự sâu sắc, tiềm lực
kinh tế, tổ chức xã hội không thật vững chắc nên nhìn chung để bảo vệ và duy
trì quyền lực, các thể chế chính trị Đông Nam Á đều phải dựa vào quyền uy của
thần thánh. Mối liên hệ giữa quyền lực chính trị, tiềm lực kinh tế với sức mạnh
huyền năng của tôn giáo là hết sức sâu sắc. Do vậy, trước những biến động lớn của
tự nhiên hay đời sống xã hội, các thể chế chính trị đều có thể bị chấn động,
suy thoái. Trong lịch sử, các thể chế chính trị Đông Nam Á luôn có tính di biến động cao và rất dễ bị tổn thương trước những tác động
của điều kiện chính trị, xã hội trong nước, khu vực. Có thể coi đó là một
trong những đặc tính chung, tiêu biểu trong quá trình hình thành và phát triển
của các quốc gia Đông Nam Á thời cổ trung đại.
Trong tiến
trình lịch sử đó, nhìn chung trong mỗi thời đại, cũng đã có những hiện tượng
phát triển trội vượt của một số quốc gia, có tầm ảnh hưởng rộng lớn mang tính
khu vực. Có thể gọi đó là các Đế chế khu vực (Regional impires) như hiện tượng Phù Nam trong các thế kỷ II-VII17[17],
Angkor thế kỷ VIII-XIII, Srivijaya thế kỷ VI-XIII, Majapahit thế kỷ XIII-XV...
So với các Đế chế thế giới (World empires),
các Đế chế khu vực có phạm vi lãnh thổ và mức độ ảnh hưởng hẹp hơn nhưng lại có
vai trò rất quan trọng trong các mối quan hệ chính trị, kinh tế, giao lưu văn
hóa… với các quốc gia trong cùng một tiểu vùng bởi những tác động thường xuyên
và trực tiếp. Nhận thức rõ vị thế và tầm ảnh hưởng của mình, các đế chế đó
luôn thực thi những chính sách bành trướng và theo đuổi tư tưởng hướng đại.
Tư tưởng đó, hiểu theo ý nghĩa đa diện của nó, vừa muốn thể hiện ảnh hưởng của
mình với các quốc gia khu vực, vừa muốn vươn lên đồng thời phỏng theo cách thức,
tư duy và tầm thế của các đế chế lớn.
Trên thực
tế, trong rất nhiều trường hợp, chính sách hướng đại đó của một số quốc gia
Đông Nam Á còn là biện pháp hữu hiệu nhất để tự bảo vệ mình. Mặt khác, việc thực
hiện một chính sách áp chế, nô dịch với các thuộc quốc và các quốc gia chịu ảnh
hưởng, trong những thời điểm lịch sử nhất định, đã nâng tầm thế chính trị và
đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho các cường quốc khu vực. Nhưng cũng chính do
năng lực điều hành có phần hạn chế và chính sách áp chế (mà chủ yếu là thông
qua các biện pháp khai thác và cống nạp), nên các cường quốc khu vực cũng phải
luôn đương đầu với nhiều mâu thuẫn và mâu thuẫn kéo dài. Chính tình trạng mâu
thuẫn này, cùng với những suy yếu, bất cập bên trong, đã là những nguyên nhân
chính yếu dẫn đến sự suy thoái thậm chí sụp đổ của nhiều cường quốc. Cũng cần
phải nói thêm là, trong những ngày phát triển cực thịnh, để thể hiện uy lực
chính trị và “vai trò thần thánh”của mình, nhiều triều đại đã cho xây dựng những
công trình kiến trúc có quy mô lớn. Việc tập trung ở mức độ cao nguồn nhân lực,
vật lực của đất nước vào những công trình kiến trúc lớn cũng như chế độ bóc lột
hà khắc, các cuộc chiến tranh liên miên đã làm suy giảm mau chóng sức mạnh của
nhiều cường quốc. Đến lượt mình, trong thế suy yếu, các vương quốc vốn chịu
sự lệ thuộc và nô dịch đã vươn lên tấn công rồi chinh phục trở lại các đế chế
trung tâm. Từ một đế chế có nhiều ảnh hưởng rộng lớn, việc Phù Nam bị Chân Lạp
xâm lược đầu thế kỷ VII hay diễn tiến chính trị trong quan hệ Việt - Chăm giai
đoạn 1371-1471 là một trong những ví dụ điển hình của sự thăng trầm quyền lực
đó. Đến thời trung đại, việc vương quốc Ayutthaya, một quốc gia cường thịnh ở
Đông Nam Á bị quân Miến Điện chinh phục và cuối cùng kinh đô Ayutthaya bị đốt
phá năm 1769 hay sự chuyển giao quyền lực giữa Srivijaya và Majapahit ở đảo
Sumatra, Java thế kỷ XIII là những minh chứng khác nữa về sự biến đổi vị thế
chính trị giữa các quốc gia Đông Nam Á trong lịch sử[18].
Trước những
biến đổi và thăng trầm quyền lực đó, từ thế kỷ VI-VII, ở vùng trung lưu Mekong
đã nổi lên vương quốc Chân Lạp của người Khmer. Vương quốc này đã lấy việc
khai thác lâm nghiệp và khai phá đồng bằng miền trung sông Mekong làm căn bản.
Từ thế kỷ VII, Chân Lạp đã mở rộng ảnh hưởng của mình ra một vùng rộng lớn ở
tây nam Đông Nam Á lục địa. Dựa vào nền tảng kinh tế nông nghiệp, được dẫn dắt
bởi hệ tư tưởng Phật giáo hoà trộn với những yếu tố Bà La Môn giáo và cả
Hindu giáo... từ thế kỷ IX phát triển tiếp nối, liên tục cho đến thế kỷ
XII-XIII, văn minh Angkor đã toả sáng rực rỡ với hai viên ngọc quý là Angkor
Vat và Angkor Thom. Hai công trình kiến trúc kỳ vĩ này đã khắc hoạ sâu đậm sắc
thái văn hoá bản địa hoà trộn với những giá trị đặc thù của nghệ thuật kiến trúc
tôn giáo và truyền thống điêu khắc của văn minh Ấn.
Ở vùng
biển phương Nam, trên đảo Java và Sumatra, từ những thế kỷ đầu Công nguyên
cũng đã dần hình thành một số tiểu quốc mà chủ nhân là người Mã Lai - Đa đảo (Malayu - Polinesians). Vào thế kỷ VI, quá
trình thống nhất các tiểu quốc đồng thời là các nhà nước sơ khai trên các đảo
phương Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ. Hệ quả lớn nhất có thể thấy được là, vào
thế kỷ VII-VIII, ở Java và Sumatra đã xuất hiện các vương quốc có nhiều ảnh hưởng
với khu vực như Srivijaya, Sailendra. Cư dân Java nổi tiếng là những người
đi biển giỏi, có kỹ thuật đóng thuyền đạt trình độ cao đồng thời cũng sớm thiết
lập mối quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á lục địa[19].
Họ cũng chính là những kiến trúc sư và nghệ nhân tài hoa xây dựng nên công
trình kiến trúc tôn giáo Borobudur kỳ vĩ ở đồng bằng Kedu vào giữa thế kỷ VIII[20]
Phác dựng
lại những diễn tiến lịch sử, diện mạo chính trị Đông Nam Á qua trường hợp một số
quốc gia điển hình ở Đông Nam Á để từ đó thấy rõ: cho đến thế kỷ thứ X, do những
hoàn cảnh và điều kiện lịch sử, xã hội khác biệt, ở Đông Nam Á đã sớm hình
thành những nền văn hoá và một số vương quốc có tầm ảnh hưởng tương đối rộng
lớn. Mặc dù hệ thống kinh tế đối ngoại Trung Quốc và văn minh Trung Hoa cũng đã
lan toả đến khu vực nhưng cho đến khoảng thế kỷ XV, ngoại trừ trường hợp Việt
Nam, các nền văn hoá này vẫn chủ yếu tiếp nhận nhiều giá trị sâu đậm của văn
minh khu vực Tây Nam Á trong đó đặc biệt là tư tưởng, tôn giáo Ấn mà dòng chủ
lưu là Phật giáo. Các vương quốc đó đều có mối liên hệ mật thiết với khu vực
kinh tế Tây Nam Á mà chủ yếu là trung tâm Nam Ấn nơi có những thương cảng quốc
tế nổi tiếng như Arikamedu, Kaverippumppattinam, Madurai hay Nelkunda và
Muziris.
Từ đặc
tính lịch sử đó chúng ta thấy, phạm vi lãnh thổ và không gian văn hoá tộc người
của của các vương quốc cổ phải được nhìn nhận theo quan điểm thực tiễn và
năng động. Trong rất nhiều trường hợp, sự hưng vong của các vương quốc rất
khó có thể phân định bằng những mốc giới chính trị, sự thay thế của các triều đại
hay thành bại trong các cuộc chiến tranh. Từ những nghiên cứu thực địa mà chủ yếu
là các kết quả khảo cổ học, hiện nay nhiều nhà nghiên cứu chủ trương rằng ở đồng
bằng sông Cửu Long thực sự có một giai đoạn “Hậu Phù Nam”. Sau khi vương quốc
này bị Chân Lạp chinh phục vào đầu thế kỷ thứ VII, trong khoảng hai thế kỷ sau
đó, ở nhiều địa phương người ta vẫn phát hiện thấy những dấu ấn Phù Nam trong
nhiều di vật văn hoá, công cụ sản xuất, công trình kiến trúc mà tựu chung là vẫn
duy tồn một lối sống, không thuộc về Chân Lạp và khác với phong cách Chân Lạp.
Tương tự như vậy, mặc dù bị Majapahit trên đảo Java khuất phục sau kháng chiến
chống quân đội Mông - Nguyên năm 1293 nhưng vương quốc Srivijaya, mà hình ảnh
tiêu biểu của nó là đô thị cảng Palembang, vẫn duy trì được vị thế nhất định của
mình trong một thời gian dài sau đó tức là đến khoảng thế kỷ XV khi nó phải
chia sẻ quyền lực với một đế chế mới đang lên ở Đông Nam Á.
Cũng có
thể thấy, ở Đông Nam Á, do cùng có chung một môi trường sống và nguồn gốc tộc
người, lại được củng cố thêm bằng những yếu tố tâm linh, tôn giáo mà tính di biến động của các quốc gia và giữa
các tiểu quốc trong cùng một vương quốc là rất cao. Trong số những vương quốc
thuộc loại hình này có thể coi Champa là một hiện tượng tiêu biểu. Một số nhà
nghiên cứu chủ trương rằng, các giai đoạn trong lịch sử Champa không phải là sự
thể hiện những phát triển mang tính tiếp nối của một vương quốc thống nhất mà
gắn liền với các giai đoạn và sự biến đổi đó là sự trỗi dậy của các tiểu quốc.
Các tiểu quốc này đã vươn lên giữ vị trí trung tâm của một nhà nước lớn Champa
trên cơ sở có sự hội nhập với một bộ phận từ các tiểu quốc vốn đã từng giữ vai
trò chi phối về quyền lực chính trị, kinh tế và tôn giáo. Một số nhà nghiên cứu
cho rằng đặc tính đó thể hiện khá rõ mối liên kết lỏng lẻo giữa các tiểu quốc
hay còn gọi là các mandala. Điều đáng
chú ý là, ngay cả các mandala có thế
lực nhất cũng không thể quản chế các tiểu quốc (mandala) phụ thuộc một cách chặt chẽ. Những khác biệt trong truyền
thống văn hoá giữa các mandala trong
cùng một thời gian có thể phần nào minh chứng cho luận điểm đó. Sự tồn tại đồng
thời nhiều quốc gia trên cùng một khu vực lãnh thổ như trường hợp Champa và
Srivijaya, được ghi nhận trong các nguồn sử liệu Trung Quốc và tư liệu khảo cổ
học có thể góp thêm những luận cứ cho quan điểm này21[21].
Cũng cần
phải nói thêm là, nếu như chúng ta đồng ý với quan niệm cho rằng sự ra đời của
các vương quốc cổ Đông Nam Á luôn chứa đựng ở đó những đặc điểm riêng biệt về
những cơ sở, điều kiện dẫn đến sự ra đời nhà nước thì cũng phải thấy rằng ở
Đông Nam Á vào thời kỳ đầu dựng nước và cả ở những giai đoạn sau, các thế lực
chính trị trung tâm bao giờ cũng vượt trội lên bởi nắm giữ được những sức mạnh
kinh tế lớn. Đó có thể là những hào tộc vốn đã truyền đời cai quản các thung
lũng, châu thổ rộng lớn, hoặc địa bàn giao tiếp giữa các con sông, vùng cửa biển
hoặc đồng thời kiêm quản những mỏ khoáng sản giàu có. Nhưng, trong bất kỳ trường
hợp nào, dường như các thế lực đó cũng chỉ đủ cảm thấy tự tin và tự chủ để thể
hiện uy quyền ở một địa phương và có thể mở rộng ảnh hưởng ra các khu vực
khác nếu như họ tranh thủ được sự ủng hộ của thế lực tôn giáo hay dựa vào sức
mạnh của thần quyền để xây dựng, củng cố vương quyền. Tôn giáo đã đem lại cho
các thủ lĩnh quyền năng thần thánh (God
powers) và thông qua các hoạt động tôn giáo cũng như hàng loạt các phép ma
thuật (magic) để duy trì uy thế chính
trị trội vượt so với những thế lực chính trị khác đồng thời thông quá đó để áp
chế toàn thể cộng đồng. Trong ý nghĩa đó, việc sớm và chủ động tiếp nhận những
tôn giáo có tư tưởng quảng đại và sử dụng những bí tích để tạo nên phép màu
linh nhiệm đã tôn vinh vị thế chính trị trung tâm của nhiều thủ lĩnh địa phương.
Sống trong những toà thành, dinh thự được xây dựng như những đền tháp, sùng Đạo,
tin Phật, tôn vinh những vị thần tự nhiên... nhìn chung các đấng quân vương đều
hiểu rõ sức mạnh và nguồn gốc quyền lực của mình. Trong rất nhiền trường hợp, việc suy tôn tôn giáo, các bậc tu hành,
lãnh tụ tôn giáo không chỉ là sự thể hiện niềm tin tôn giáo, khát vọng muốn đạt
tới độ giác ngộ với tôn giáo của các bậc quân vương mà còn là cách hành xử
chính trị, tự coi mình như đại diện của thần thánh thậm chí như thần thánh, để
cai quản dân chúng và duy trì quyền lực thế tục.
Do vậy,
cùng với đặc tính di biến động cao thì sự hình thành, phát triển của các quốc
gia Đông Nam Á còn có vai trò rất quan trọng của tôn giáo. Trong rất nhiều trường
hợp, các thế lực chính trị trung tâm không hẳn đã là những đại diện tiêu biểu của
một giai cấp, một thể chế hay một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Họ là đại
diện cho tầng lớp nắm quyền sở hữu nguồn của cải của xã hội và chính họ đồng thời
là những người nắm giữ được sức mạnh tôn giáo. Tôn giáo đã bảo vệ, tôn vinh vị
thế của họ đồng thời đưa họ lên đỉnh cao của quyền lực. Nhận thức về bản chất
lịch sử của các nhà nước cổ Đông Nam Á, học giả nổi tiếng O.W.Wolters gọi đó là
các mandala[22].
Theo quan điểm của chúng tôi, lý thuyết mandala
là một trong những chìa khoá để nhận thức, khảo cứu về sự hình thành, phát triển
của các vương quốc cổ Đông Nam Á cũng như vai trò và đặc tính của lịch sử, văn
hoá của các quốc gia khu vực21.[23]
Tuy chịu
ảnh hưởng sớm của văn minh và thể chế chính trị Trung Quốc, Ấn Độ nhưng thiết
chế xã hội nông thôn Đông Nam Á có nhiều đặc tính hoàn toàn khác biệt với kiểu
xã hội nông nghiệp cổ truyền Trung Hoa và Ấn Độ. Các công xã nông thôn Ấn Độ (desa) luôn là những thực thể khép kín,
biệt lập và chịu áp chế mạnh của Bà La Môn giáo cùng sự hà khắc của chế độ đẳng
cấp Varna. Thiết chế xã hội nông nghiệp cổ truyền Đông Nam Á tuy có phần chặt
chẽ nhưng vẫn có những không gian thoáng mở cho các sinh hoạt mang tính cộng đồng,
cho sự liên kết làng và mối liên hệ liên làng, siêu làng[24].
Điều có thể thấy được là, mỗi khi chủ quyền dân tộc bị thách thức, cần tập hợp
sức mạnh của toàn thể cộng đồng thì các cấu trúc làng tưởng như đơn biệt ấy có
thể dễ dàng hoà nhập với cộng đồng chung thống nhất để tạo nên sức mạnh của
toàn thể dân tộc. Trong môi trường xã hội của các làng (hay thôn, bản, phum,
soóc)... các giá trị văn hoá cổ truyền dân tộc cùng những kinh nghiệm sống, ứng
xử với tự nhiên, xã hội, các phong tục, tập quán... cũng được bảo tồn lâu dài
và bền vững nhất. Cấu trúc văn hoá làng (được hiểu như một khái niệm mang tính
đại diện) với tất cả những sinh hoạt kinh tế, quan hệ xã hội, đời sống tâm
linh... đã được thể hiện trong các hoạt động đa dạng qua những thực thể nhỏ
(vi mô) của một chỉnh thể rộng lớn (vĩ mô) là một khu vực hay cả nước. Hiểu
theo một ý nghĩa nào đó, làng là một bộ phận hợp thành của cấu trúc lớn (vùng,
vương quốc...). Qua sự vận hành các sinh hoạt cộng đồng và thiết chế làng xã
có thể thấy một phần hình ảnh của nước (vương quốc). Trải qua thời gian, làng
(buôn, phum, soóc...) dường như ít biến đổi nhưng sự biến đổi của cấu trúc lớn
luôn có tác động không nhỏ đến đời sống xã hội cũng như số phận của làng.
[1] Peter Bellwood and Ian Glover: Southeast Asia - Foundation for an Archaeological
History; in Southeast Asia from Prehistory to History, Ian Glover and Peter
Bellwood (Ed.), Routlrdge Curzon, 2004, p. 4. Trong công trình này, thông qua
các kết quả nghiên cứu khảo cổ học cũng như liên ngành các tác giả cho rằng cư
dân Đông Nam Á là những người bản địa, họ đã sớm có tiếng nói và truyền thống
văn hoá riêng. Từ sau Công nguyên mặc dù văn hoá Ấn Độ, Trung Quốc và Arập có
những ảnh hưởng mạnh mẽ với văn hoá khu vực nhưng Đông Nam Á nhìn chung vẫn
là những thực thể văn hoá, xã hội riêng biệt có bản sắc riêng và sáng tạo.
[2] Hà
Văn Tấn: Tiền sử học Đông Nam Á:
Tri thức và khuynh hướng; trong: Theo dấu các nền văn hoá cổ, Nxb. Khoa
học Xã hội H.,1997, tr. 13 -31.
[3] Trần
Quốc Vượng: Truyền thống văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á và Đông Á; trong: Văn hoá Việt Nam
tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hoá Dân tộc và Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, H.,
2000, tr. 15-24. Tham khảo thêm Lương Ninh (Cb.): Lịch sử Đông Nam
Á, Nxb. Giáo Dục, H., 2005, tr. 9-10; Nicholas Tarling (Ed.): The Cambridge History of Southeast Asia,
Vol. 1, Cambridge University Press,1992.
[4] Ngô Văn
Doanh: Chămpa và buổi đầu tiếp xúc với Ấn
Độ; trong: Đông Nam Á - Truyền thống và hiện tại, Vũ Dương Ninh (Cb.), Nxb. Thế Giới, H., 2007,
tr. 104.
[5] A. Lamb:
Some Observations of Stone and Glass
Beads in Early Southeast Asia, Journal of the Malay Branch of the Royal
Asiatic Society, Vol. 55, 1974, No. 1-4, p. 208-211.
[6]
Monomohan Ghosh: Indian Cultural
Influence on Prehistoric Vietnam, Annals of the Bhadarkar Oriental Research
Institute Poona, Vol. 55, 1974, No.1-4, p. 208 - 211
[7] Hà Văn
Tấn (Cb.): Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam ,
Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1994.
[8] Trần
Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam ,
Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 85.
[9]
Tadao Umesao: Lịch sử nhìn từ quan điểm
sinh thái học - Văn minh Nhật Bản
trong bối cảnh thế giới, Nxb. Thế Giới, 2007, tr. 151-164. Arnold Toynbee: Nghiên cứu lịch sử - Một cách thức diễn giải,
Nxb. Thế Giới, H., 2002, tr. 61.
[10]
Nguyễn Văn Kim: Diễn trình giao lưu kinh
tế, văn hoá Việt - Trung vùng thượng nguồn sông Hồng trong bối cảnh khu vực,
Báo cáo trình bày tại Hội thảo quốc tế, Học viện Hồng Hà, Vân Nam, Trung Quốc,
tháng 10-2005. Tạp chí Khoa học Xã hội, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1, 2006,
tr. 9-26
[11]
Trong số các học giả phương Tây có thể coi Wilhemlm G.Solhem II là một trong
những nhà khoa học luôn có những đánh giá về sự phát triển cao và tính tiên
phong của văn hoá Đông Nam Á. Ông cho rằng: “Chủ nhân văn hoá Hoà Bình là ngời
trồng trọt đầu tiên trên thế giới, niên đại xuất hiện của nông nghiệp ở đây có
thể lên đến 15.000 TCN. Vì vậy, theo ông Đông Nam Á đã có một cuộc Cách mạng
nông nghiệp sớm nhất thế giới. Người Hoà Bình đã biết làm gốm văn thừng cách
đây một vạn năm. Các văn hoá đá mới ở Trung Quốc như Ngưỡng Thiều, Long Sơn
đều bắt nguồn từ một tiểu văn hoá (subculture)
Hoà Bình và di động từ Nam lên Bắc. Người Đông Nam Á đã dùng thuyền vượt biển
từ 1.000 năm TCN, đến Đài Loan và Nhật Bản, mang đến đất Nhật nghề trồng taro
và các giống cây trồng khác. Khoảng 4.000 năm TCN, nghề luyện kim đã được phát
minh ở đâu đó trong khu vực Đông Nam Á...”. XemWilhemlm G.Solhem II:
New Light on a Forgotten Past,
National Geographic Magazine, 139(3), 1971; dẫn theo Hà Văn Tấn: Theo dấu các nền văn hoá cổ, Sđd, tr.
25-26. Tham khảo thêm Trần Quốc Vượng: Văn
hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn học, H., 2003; Bùi Huy Đáp -
Nguyễn Điền: Nông nghiệp Việt Nam từ cội
nguồn đến đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1996 và các bài viết của
Đào Thế Tuấn trên Tạp chí Xưa & Nay,
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 8 (09) XI, 1994 và số 5 (139), 2003
[12] Fukui Hayao
(Ed.): The Dry Areas in Southeast
Asia : Harst or Benign Enviroment, The Center for Southeast
Asian Studies (CSEAS), March, 1999.
[13]
Trần Quốc Vượng: Miền Trung Việt Nam và văn hoá Chămpa (Một cái nhìn Địa -
văn hoá); trong: Việt Nam
cái nhìn địa văn hoá, Nxb. Văn hoá dân tộc, H., 1998, tr. 330.
[14]
James Scott: The Moral Economy of
Peasent: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia, Yale
University Press, 1977; Anthony Reid
and David Marr: Perceptions of The Past
in Southeast Asia, Australian National University ,
Canberra , 1979.
[15]
Phan Huy Lê: Tìm về cội nguồn, Tập
II, Nxb. Thế Giới, H., 1999, tr.47. Các ý dẫn trong ngoặc là luận điểm của
K.Marx trong tác phẩm: Những hình thái có
trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; trong: Bàn về các xã hội tiền tư
bản, Nxb. Khoa học xã hội, H., 1975, tr.74.
[16] Anthony
Reid: Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680, Vol.
1: The Land below the Winds, Yale University Press, 1988, p.121-146.
[17] Phan
Huy Lê: Thử nhận diện nước Phù Nam qua tư
liệu thư tịch và khảo cổ học, trong: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: Văn hóa
Óc Eo & Vương quốc Phù Nam, Nxb. Thế Giới, 2008, tr. 229-246; Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và văn hóa,
Viện Văn hóa – Nxb. Văn hóa Thông tin, H., 2005.
[18] D.R.
SarDesai: Southeast
Asia - Past &
Present, Westview Press, 2003, p. 43-50. Xem Nguyễn Văn Kim: Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông Nam Á,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (386), 2008, tr.25-39.
[19] Nguồn tư liệu sớm nhất của nước ta viết về
quan hệ với các quốc gia trong khu vực là Đại
Việt sử ký toàn thư. Năm 1149, thời vua Lý Anh Tông (1136-1175): “Mùa
xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào Hải Đông, xin
cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán
hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương”, Toàn thư, Sđd, Tập I, tr.317. Từ góc độ nghiên cứu lịch sử thương
mại châu Á, chúng tôi cho rằng năm 1149 không thể là lần đầu tiên thuyền buôn
từ Đông Nam Á trong đó có Java mới đến giao thương với Đại Việt.
[20]
Kenneth R. Hall: Maritime Trade and State
Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press ,
1985, p.109.
[21]
Tham khảo thêm Charles Higham: The
Archaeology of Mainland Southeast Asia from 10,000 B.C to the Fall of Angkor,
Cambridge University Press, 1991, p. 239-353. Xem thêm: Lương thư, Tuỳ thư... tư liệu đã dẫn, Khoa Lịch sử, Trường ĐH
KHXH & NV, ĐHQG HN.
[22]
O.W.Wolters: History, Culture and
Religion in Southeast Asian Perspectives, Cornell
University , Ithaca
- New York ,
1999, p. 16 - 20. Tham khảo thêm Yamamoto Tatsuro: Myths Explaining the Vicisstudes of Political Power in Ancient Vietnam,
Acta Asiatica, No. 18, 1970, p.70-94; Peter Grave: Beyond the Mandala: Buddhist Landscapes and Upland-Lowland Interaction
in North-West Thailand AD 1200-1650, JSTOR, World Archaeology, Vol.27,
No.2, October, 1995, p.243-265.
[23] Nguyễn
Văn Kim: Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông
Nam
Á, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (386), 2008, tr.25-39.
[24] Hà Văn
Tấn: Làng, Liên làng và Siêu làng - Mấy
suy nghĩ về phương pháp; trong: Đến với lịch sử, văn hoá Việt Nam ,
Nxb. Hội nhà văn, H., 2005, tr. 31-40
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét