Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

Vài suy nghĩ về văn minh Phương Đông


Vài suy nghĩ về văn minh Phương Đông


Ngày nay, Phương Đông quả thật cách Phương Tây quá xa về trình độ, đặc biệt nếu xét về khoa học kỹ thuật và kinh tế thì khoảng cách đó càng kéo dài. Khoảng cách đó rất khó để Phương Đông “đuổi kịp” trong thời gian tới. Đó là sự thật! Và nhiều người nhìn thấy!
Nhưng Phương Đông với những đặc trưng của nó, đã và đang sáng tạo ra những thành tựu mà Phương Tây sẽ phải cúi đầu. Thâm trầm, sâu lắng và không chạy đua ồn ào nhưng Phương Đông vẫn đang ngày càng tiến tới những giá trị đích thực của cuộc sống này…
Tác giả không viết bài tiểu luận này với mục đích ngợi ca, hay biện minh cho sự “chậm tiến” của văn minh Phương Đông hiện nay, nhưng bằng những suy nghĩ của mình tác giả muốn thử tìm những lý do đã làm cho Phương Đông bị “khựng” lại trên bước đường đi tới của nền văn minh. Và phải chăng, khi đưa ra những nhận định về một đối tượng nào đó, trước hết phải hiểu nó và nhìn nó bằng con mắt và phương hướng mà nó đã chọn, đã đi? Ở đây là nhìn Phương Đông với chính cách nhìn của Phương Đông, về vũ trụ, thế giới và về cuộc sống. Từ đó xác định một cách nhìn nhận khách quan về Phương Đông và văn minh Phương Đông.
Tiểu luận đề cập đến văn minh Phương Đông và sự phát triển của nó, song nói đến văn minh Phương Đông không thể không đặt nó trong mối tương quan với văn minh Phương Tây. Nếu chỉ nhìn văn minh Phương Đông với riêng nó sẽ thiếu tính khách quan, do đó trong bài viết của mình tác giả cố gắng đặt Phương Đông trong sự liên hệ với Phương Tây. Tuy nhiên do những hiểu biết có phần hạn chế về văn minh Phương Tây và trong khuôn khổ của một tiểu luận, tác giả chỉ xin đề cập đến nền văn minh này ở một vài điểm.
Ngày nay, văn minh Phương Đông được nhìn nhận là kém phát triển hơn Phương Tây. Người ta xem Phương Đông đã trải qua một quá trình “ngủ mê”, để đến khi tiếp xúc với Phương Tây mới “bừng tỉnh”… Sự thật có phải như vậy? “Ngủ mê” đồng nghĩa với “trì trệ”! Phương Đông đã trì trệ và kém phát triển?! Phương Đông không “trì trệ”! Bài viết này sẽ cố gắng tìm hiểu một nền văn minh Phương Đông từng chói sáng.  Và thử đi tìm hiểu những lý do Phương Đông không tiếp tục “đi lên” theo đà phát triển mà “khựng” lại. Phải chăng vì Phương Đông không thể tiếp tục phát triển hay vì một lý do nào khác, từ trong nhận thức và tư tưởng của người Phương Đông? Và phải chăng cái mà Phương Tây cho là “phát triển”, “thành tựu”… Người Phương Đông cũng cùng chung một suy nghĩ?! Viết bài này, tác giả chỉ mong muốn tìm hiểu trong văn hóa, quan điểm của người Phương Đông, những vấn đề về phát triển, tri thức, khoa học được nhìn nhận như thế nào.

1. Có một nền văn minh Phương Đông phát triển:
          Phương Đông có một nền văn minh phát triển từ rất sớm, với những thành tựu tiêu biểu. Những thành tựu đó có vai trò to lớn đối với đời sống xã hội Phương Đông nói riêng và đối với toàn nhân loại nói chung. 
           Trung Quốc và Ấn Độ được xem là hai nền văn minh tiêu biểu của Phương Đông, ngoài ra còn các nền văn minh khác như Lưỡng Hà, Ai Cập, và có thể kể thêm Đông Nam Á, Nhật Bản, Hàn Quốc…
          Những thành tựu của Phương Đông xuất hiện sớm trên nhiều lĩnh vực. Bao gồm: chữ viết (5.000 năm trước công nguyên), trình độ tổ chức xã hội, pháp luật, khoa học (toán học), văn hóa nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo, những phát minh lớn…
Chỉ kể riêng toán học với việc sáng tạo ra hệ thống số đếm từ 0 đến 10, việc phát hiện ra số Pi (p = 3,1416), tính được hệ số góc của tam giác… đã có thể thấy được trình độ phát triển của văn minh Phương Đông. Đặc biệt co số không (0) của người Ấn độ sáng tạo ra đã hoàn thiện được hệ thống số đếm vô cùng tiện lợi cho nhân loại, con số không là biểu tượng cho tư duy trừu tượng ở mức độ cao của nền văn minh Ấn Độ.
          Bên cạnh đó, y học có thể được xem là một trong những thành tựu nổi bật của nền văn minh Phương Đông. Thuật ướp xác của người Ai Cập cổ đại, ý niệm đi tìm thuốc trường sinh của người trung Quốc, sự luyện tập và nghiên cứu mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ thể người với thế giới bên ngoài của các trường phái triết học Ấn Độ, Trung Quốc đã mang lại những hiểu biết về cơ thể người từ rất sớm, người Phương Đông cổ đại đã có thể nhận biết và chữa được rất nhiều bệnh, đặc biệt là những hiểu biết về thuật giải phẫu.
          Trong khi đó, nền văn minh Trung Quốc đã cung cấp cho nhân loại đến bốn phát minh lớn, đó là thuật làm giấy, nghề in, la bàn (cái “tư nam”) và thuốc súng, ngoài ra còn các phát minh khác từ rất sớm như: bánh lái, dùng thực vật thăm dò mỏ (khoảng năm 380 – trong khi người Anh phát hiện ra năm 1600!), khai thác mỏ đồng, dầu mỏ, khí đốt và than đá, kính tiềm vọng, máy ghi địa chấn, lưỡi cưa…[1].
Không chỉ là một nền văn minh phát triển từ sớm, nền văn minh Phương Đông còn là nơi cung cấp cho nhân loại những thành tựu to lớn của mình, là bệ phóng cho văn minh các nơi khác phát triển. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Thông qua con đường tơ lụa, người Ả Rập đã học tập văn minh Phương Đông rồi mang truyền sang các nước Phương Tây.
Tất cả những thành tựu được kể trên, và những thành tựu chưa được kể đến của Phương Đông được người Phương Tây tiếp thu, cải biến, ứng dụng và ngày một phát triển dần lên, vượt qua cả người “thầy” của mình. Chỉ riêng thành tựu về con số không của Ấn độ, Will Durant - một học giả chuyên nghiên cứu về văn minh thế giới - đã nhận xét: “chính nhờ Ấn Độ mà chúng ta học được cái cách tài tình chỉ dùng có mười chữ mà viết được đủ các số, mỗi chữ vừa có một trị số tuyệt đối, vừa có một trị số tùy theo vị trí của nó; ý đó tế nhị mà quan trọng, ngày nay chúng ta cho là giản dị quá nên không cảm được công lao to lớn của người Ấn. Nhưng chính nhờ nó đơn giản mà làm toán mới hóa ra cực kỳ dễ dàng, và hệ thống số học đáng được kể là sáng kiến ích lợi nhất. Có nghĩ rằng hai bậc thiên tài bậc nhất thời thượng cổ, Archimède và Apollonius mà cũng không tìm ra được hệ thống đó thì mới nhận định nổi sáng kiến của người Ấn tài tình ra sao”[2].
Chỉ chừng đó thôi cũng đủ thấy rằng Phương Đông đã có một nền văn minh phát triển cao và sớm, từ đó truyền ssang Phương Tây. Và cũng có thể nói, ở một chừng mực nào đó, người Phương Tây nợ người Phương Đông với những thành tựu mà họ đã học tập, ứng dụng của người Phương Đông để xây dựng nên nền văn minh rực rỡ của mình.
Nhưng, lẽ ra nền văn minh Phương Đông phải tiếp tục đi lên, tiếp tục phát triển thì nó lại “đột ngột khựng lại” trong một thời gian dài. Về sau lại trở nên lạc hậu hơn so với sự tiến bộ của Phương Tây, nhất là từ thời kỳ Phục hưng trở về sau.
Cái gì đã làm cho nền văn minh từng rực sáng đó khựng lại, không tiến nhanh được? Phải chăng có một lý do nào đó nằm trong chính những nhận thức, quan điểm của người Phương Đông? Hệ thống tư tưởng, triết học, tôn giáo vốn cũng là những thành tựu lớn của người Phương Đông cổ đại, và trung đại. Là một thành tựu nhưng chính những yếu tố này khi tác động trở lại tư duy, hành động của con người Phương Đông thì lại định hướng nền văn minh này đi theo một hướng riêng của nó.

2. Một vài quan điểm, tư tưởng của văn minh Phương Đông tác động đến sự phát triển của nền văn minh:
Như đã nói ở trên, tư tưởng, triết học, những thành tựu đỉnh cao của Phương Đông đã quay lại trở thành cái hướng dẫn người Phương Đông đi theo con đường riêng của mình. Những tư tưởng của người Phương Đông rất đa dạng, phong phú, song có thể khái quát thành các tư tưởng chủ yếu sau:
Sống hài hòa với thiên nhiên:
Trong tâm thức của người Phương Đông, con người không chọn cách chinh phục thiên nhiên, tác động vào thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên buộc thiên nhiên phục vụ mình mà chọn cách sống hài hòa với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên, vào quy luật của tạo hóa để sống và hoạt động.  
Ngay trong kinh Veda, người ta đã thấy có khái niệm “Nghiệp”, “Luật nhân quả” mà người ta cũng coi “tự nhiên” và tất cả những điều thuộc về tự nhiên (ngoài con người) đều “bình đẳng” và “luân hồi”… Hành vi tốt thì sẽ được đền đáp, hành vi xấu thì sẽ bị trừng trị, nhưng không phải ở kiếp đang sống mà ở kiếp sau.  Do đó Phương Đông không có xu hướng bắt tự nhiên phục vụ con người.
V.I. Xamokhvalova nói: “các học thuyết triết học Phương Đông không bao giờ đặt con người vào trung tâm của thế giới, mà chỉ coi con người như một yếu tố của thế giới, một bộ phận của giới tự nhiên, một trình độ của cấu trúc thế giới. Vì thế ở Phương Đông không có cơ sở cho sự phát triển của quan niệm lấy con người làm trung tâm, cũng như không có mảnh đất thích hợp cho nhân học triết học xuất hiện. Con người ở đấy tham dự một cách tự nhiên vào đời sống của thế giới, vào nhịp điệu của tự nhiên, còn bản thân giới tự nhiên thì đã hoàn thiện và con người phải tìm cách thích nghi chứ không được chống lại”[3]. 
          Chính tư tưởng này đã chi phối tư duy và hành động của Phương Đông, cái mà người Phương Đông nỗ lực là nỗ lực để “hiểu” thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên để con người và thiên nhiên hài hòa làm một, trở thành một tổng thế trong vũ trụ. Do đó, họ không chú trọng việc nghiên cứu để chinh phục, cải tạo, làm mới thiên nhiên, và như vậy, thật khó để khoa học kỹ thuật có cơ hội phát triển trong điều kiện quan điểm của người Phương Đông như vậy.
          Người Phương Đông “dửng dưng” với phát triển:
Với những cơ sở và điều kiện cho sự phát triển, cộng với nột nền văn minh từ rất sớm, Phương Đông hoàn toàn có thể đẩy nhanh sự phát triển của mình, nhưng dường như có một thái độ “dửng dưng” của Phương Đông với sự phát triển. Sự “dửng dưng” này của Phương Đông, buộc ta phải suy nghĩ lại. Người Phương Đông “dửng dưng” với sự phát triển vì có quan điểm cho rằng phát triển cũng chỉ là bề ngoài của vũ trụ bao la, của trời đất rộng lớn, có phát triển, có đạt đến những thành tựu to lớn như thế nào thì cũng chỉ là hiểu được một mặt nào đó mà thôi.
Người Phương Đông cho rằng sự bao la của trời đất, vũ trụ không thể biết mà chỉ có thể “ngộ”, không thể tác động mà chỉ có thể im lặng để cho cái hiển nhiên lộ ra, không thể nói được. “Trời có nói chăng? Mà bốn mùa cứ thế xoay vần, trăm vật trong vũ trụ cứ sanh hóa mãi. Mà trời có nói chăng?”[4].
Đạo Phật – một tôn giáo có ảnh hưởng rộng lớn đến Phương Đông cho rằng cuộc đời chỉ là bể khổ, và nguồn gốc của nó là sự “vọng động” của trạng thái tĩnh tại, của tâm hồn, là u mê chạy theo những cái không có thực, chạy theo dục vọng… Thuyết “Tứ diệu đế” của đạo Phật cho rằng tất cả những cám dỗ vật chất, những hình ảnh hiện hữu về thế giới, những cảm nhận của con người chỉ là “vô thường”, “vô ngã”! Nó vốn không tồn tại và phải dứt bỏ đi để đạt đến trạng thái giải thoát. Do đó theo tư tưởng này, sự phát triển mang lại cuộc sống đầy đủ, dồi dào về vật chất, về tri thức trình độ (khoa học) không phải là cái cần đạt đến.
Trong khi đó thì tư tưởng của Lão giáo – một hệ tư tưởng có ảnh hưởng rộng lớn trong bộ phận nhân dân (và cả trí thức) ở các nước Á Đông cho rằng sự phát triển của văn minh là cội nguồn của sự suy đồi đạo đức, của rối loạn xã hội. Lão Tử cho rằng: của cải làm ra nhiều thì chỉ gây ra giành giật, giáo dục nhiều, hiểu biết nhiều chỉ gây nên lòng ham muốn và xảo trá, có lễ nghĩa là vì có suy đồi… và phát triển theo cách cải tạo, chinh phục tự nhiên là đi ngược lại với “Đạo”, đó không phải là phát triển thực chất. lão tử còn kêu gọi con người trở lại với xã hội của thời nguyên thủy…
Bài học đầu tiên mà các hiền triết giảng trong Upanishad là sự bất túc của trí tuệ! Will Durant đã cho ta biết quan điểm đó: “… Làm sao bộ óc yếu ớt này, mới tính toán một lát đã nhứt nhối, mà đòi hiểu được cái bao la cực kỳ phức tạp của vũ trụ mà nó chỉ là một phần nhỏ phù du? Không phải là trí tuệ vô ích: nó có địa vị của nó, địa vị rất khiêm tốn thật đấy và nó giúp ích ta được rất nhiều khi nó cho ta biết các sự vật và các mối liên quan. Nhưng trước cái vĩnh cửu, vô biên, hoặc trước các nguyên tố của thực thể thì nó yếu ớt, lảo đảo làm sao! Trước cái thực thể thầm lặng, nó là nòng cốt của thiên hình vạn trạng bề ngoài, và từ mọi lương tâm tỏa ra, chúng ta cảm thấy cần có một cơ quan cảm giác trí thức hoàn hảo hơn ngũ quan và lý trí của ta. “Không phải nhờ học mà hiểu được Atman (tức linh hồn thế giới), có thiên tài không đủ, học trong sách cũng không đủ… Một tu sĩ Bà là môn phải từ bỏ sự học đi mà trở lại như một em bé… đừng chạy theo từ ngữ nữa, chỉ mỏi miệng vô ích thôi”[5].
Như vậy tư duy Phương Đông gần như tước đi khả năng mày mò, tìm hiểu cặn kẽ về tự nhiên để đạt đến những trí thức hiểu biết cụ thể. Họ chỉ cho rằng cái hiểu biết lớn nhất là hiểu biết về cái bao la, cái huyền nhiệm, mà những điều đó không thể hiểu được bằng những tri thức thông thường (tri thức khoa học, trí tuệ khoa học).
Trong phần “Lễ ký” có mô tả quá trình “phát triển” của loài người. Từ chỗ Đại thống nhất, con người bước vào thời kỳ thịnh vượng vĩ đại, sau đó đến chỗ kém thịnh hơn, sau nữa chuyển sang thời kỳ loạn lạc”[6] và họ nhận thức có thể bỏ qua các giai đoạn để tiến thẳng đến Đại thống nhất.
Đạo Lão, không những không đánh giá cao kiến thức, sự thông thái của con người mà còn coi đó chẳng qua chỉ là những tài trí bề ngoài, không có ích trong việc để đạt đến sự hào hòa với vũ trụ, đạt được “Đạo” (đạo Tự nhiên). Bên cạnh đó “Thuyết tương đối” của Trang Tử cũng không xác định lớn nhỏ, đúng sai! Cái gì gọi là lớn? cái gì gọi là phát triển? So với những sự vật khác nhau tính chất và vị trí của chúng sẽ khác nhau.
Người Phương Đông đã có thái độ “dửng dưng” với sự phát triển, họ không quan tâm đến tìm hiểu giới tự nhiên như người Phương Tây đã làm, và vì thế họ rơi vào một quá trình chậm tiến so với Phương Tây.
Đối với người Phương Đông, cần phải đạt được những hiểu biết cao nhất, đạt được cái chân lý tối cao, và họ có con đường hành động riêng của mình.


3. Con đường đi tìm chân lý của Phương Đông:
Trên thực tế ở Phương Đông vẫn có những trường phái đề cao kiến thức, đề cao nhận biết từ các giác quan, đề cao lý tính, song những trường phái đó rốt cuộc không đủ sức chi phối quan niệm của người Phương Đông về vũ trụ, về thế giới và tư duy con người.
Nền văn hóa truyền thống Trung Quốc xem xã hội như một bộ phận của vũ trụ, không có ranh giới giữa tự nhiên và nhà nước. Người ta cho rằng chúng tạo thành cái vẹn toàn thống nhất và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Hành vi của con người luôn tác động trực tiếp tới vũ trụ, gây ra các hiện tượng, các biến đổi từ phía vũ trụ, từ trời và đất. Do đó, cái yêu cầu cao nhất là sự quan tâm của con người đối với tính thống nhất hài hòa, giữ vững trật tự “vốn dĩ” đã có chứ không phải tạo ra những hành động, hành vi làm thay đổi thế giới. Thực hiện những hành vi đó có thể dẫn đến những tai họa như thiên tai, bạo loạn… Đối với người Trung Hoa, là bậc quân tử chỉ chú trọng ba điều: Nhân – Nghĩa – Đức, chứ không chú trọng lợi! “Bậc quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người không cố ý làm, không có việc gì người cố ý bỏ, hễ hạp nghĩa thì làm”[7].
Theo Khổng Tử, thái độ của con người đối với “quỷ thần” là “Kính nhi viễn chi”, đó cũng có thể hiểu là thái độ đối với các sự vật, hiện tượng tự nhiên mà con người thời đó không giải thích được… Như vậy là con đường đi đến chân lý của người Phương Đông không đi theo con đường tìm kiếm những hiểu biết về tự nhiên. Khổng Tử còn chủ trương trau dồi đạo đức và trật tự xã hội chứ không chủ trương cải tạo nó. Khổng Tử có nói đến giáo dục, nhưng cái giáo dục của Khổng Tử là giáo dục lòng Nhân, Nghĩa, Lễ…
Không phải là người Phương Đông không biết đến tri thức về khoa học kỹ thuật, không có khả năng tìm hiểu về giới tự nhiên! Họ chỉ không coi đó là con đường phải đi để đạt đến chân lý, hạnh phúc, người Phương Đông cho rằng “sự thức tỉnh (sự hiểu biết về thế giới) được truyền đạt một cách đặc biệt từ tâm sang tâm không cần dựa và hệ thống ngôn ngữ (hay tri thức khoa học)”[8].
Phương Đông lại còn cho rằng thế giới không bị bóp méo bới sự nhận thức của lý trí, của hiểu biết. Mà chính sự hiểu biết lý tính là cái đặc tính tách một số hiện tượng ra khỏi các hiện tượng khác rồi lại hệ thống hóa chúng, và chính lý trí tạo ra ranh giới giữa các sự vật, đối lập các sự vật hoặc các khái niệm với nhau, trong khi chúng là một sự hài hòa, thống nhất trong một cái trọn vẹn. Như vậy là theo Phương Đông bằng lý tính, bằng tư duy không thể nào hiểu thấu được sự vật hiện tượng, hiểu thấu vũ trụ bao la. Vì thế mà nhiều nhà hiến triết Trung Quốc theo đuổi cái lý tưởng không nhận thức thế giới bằng con đường lý trí mà bằng con đường “trực cảm”… Đối với người Ấn Độ thì “trong thế giới vô hạn, bất kỳ sinh thể nào cũng tìm được cho mình một vị thế và việc làm. Còn cuộc đấu tranh để giành lấy “địa vị dưới ánh hào quang của  mặt trời” là điều gì đó mang tính phản tự nhiên”[9].
Người Phương Đông cho rằng mục đích cuối cùng của cuộc sống là đi tìm phương cách “giải thoát”. Trạng thái giải thoát trong tư tưởng Phương Đông được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau và có nhiều con đường khác nhau nhưng hầu hết đều đi bằng con đường tinh thần, dùng tinh thần để đạt đến “trạng thái giải thoát”.
Kinh Katha Upanishad viết: “Atman chẳng thể nhận thức được bởi học vấn, bởi sức mạnh của trí óc. Atman chẳng thể nhận thức được bằng giác quan…”[10]. “Đạo đức kinh” thì viết: “Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt, ngũ âm làm cho người ta ù tai, ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruổi ngựa săn bắn làm cho người ta mê loạn, vàng bạc châu báu làm cho hành vi người ta đồi bại…”[11].
Con đường hiểu biết của người Phương Đông là vậy! Họ chấp nhận chọn con đường đi bằng trực cảm, trực giác của mình và không quan tâm đến con đường đi bằng lý tính, bằng tư duy và tri thức khoa học. Thái độ của Phương Đông như thái độ cũa Lão Tử là “vô vi”, chỉ làm những việc phù hợp với “Đạo”, không tự ý (theo ý muốn chủ quan của con người) làm gì trái với “Đạo”, trái với tự nhiên.
Và như Hoàng Ngọc Hiếu nhận xét “đạo là con đường, con đường của triết học bao giờ cũng dẫn tới đâu đó… Tới chân lý, tới cõi chí thiện, tới cõi toàn mỹ, tới miền đất hứa, tới thiên đường…, tới thượng đế. Đạo của minh triết (đạo của người Phương Đông – tác giả chú thích) không dẫn tới đâu cả… đạo là con đường ở đó… sự sống có thể sống được, mọi sự rồi thì qua được,… chỗ đi tới của đạo là ở sự đổi mới của bản thân nó”[12].
Có thể nói cả Đông Tây đều hướng đến mục đích cuối cùng là hiểu biết cuộc sống và đạt được hạnh phúc nhưng mỗi bên đi theo con đường khác nhau. Theo quan điểm của tác giả, Phương Đông đi thẳng đến mục tiêu cuối cùng thông qua con đường tinh thần, nhưng đó lại là con đường khó vì khi Phương Đông đi trực tiếp bằng con đường tinh thần, họ không có được cơ sở vật chất để làm điều kiện thuận lợi… Phương Tây thông qua con đường vật chất để tìm đến mục tiêu tinh thần, con đường dài nhưng lại là tuần tự, dễ đi và lịch sử cho ta thấy dường như Phương Tây đang đi nhanh hơn Phương Đông. Phương Tây đạt được những thành tựu cao về mặt vật chất, lấy đó làm cơ sở và đang đi đến những mục tiêu về tinh thần.
Nói như vậy có nghĩa là lúc đầu cả Đông và Tây đều cùng chung mục tiêu cuối cùng: những giá trị về tinh thần, thuộc đời sống tinh thần. Nhưng câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đạt được nó? Và Đông Tây tìm thấy những cách đi riêng, chia làm hai con đường…
Điều đáng lưu ý là, trong hiện tại, dường như Phương Tây đang về đích trước. Nhưng mặt khác cũng có thể thấy rằng Phương Đông đã và đang đạt được những thành tựu, những giá trị đích thực cho cuộc sống của con người. Mặt khác, con đường Phương Đông khó đi nhưng Phương Tây càng đi vào con đường vật chất thì càng bị cuốn sâu vào trong đó và vô hình trung vật chất lại trở thành mục tiêu hướng đến cuối cùng của một số người… Đó là điều mà văn minh Phương Tây phải nhìn về Phương Đông mà suy ngẫm.

4. Nhìn Phương Đông bằng con mắt của Phương Đông!
           Xét về khía cạnh kinh tế và khoa học kỹ thuật, văn minh Phương Đông còn thua xa Phương Tây một bước dài. Nhưng xem xét văn minh Phương Đông không chỉ xem xét dưới góc nhìn của Phương Tây mà phải nhìn Phương Đông bằng chính “con mắt” của nó, có như vậy mới hiểu được Phương Đông và nền văn minh Phương Đông một cách thực sự.
Nói đến một nền văn minh, chúng ta phải xem xét nền văn minh đó trong mối tương quan với những điều kiện, hoàn cảnh và văn hóa, tâm lý của cư dân nền văn minh đó. Một nền văn minh luôn ra đời dựa trên những điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội và đặc trưng văn hóa tâm lý của một cộng đồng, một dân tộc. Và nghiên cứu văn minh Phương Đông, điều đó là rất cần thiết.
Đứng ngoài Phương Đông đôi khi cũng có thể nhìn Phương Đông khách quan hơn, nhưng có những điều quả thực, chỉ có người trong cuộc mới là người cảm nhận sâu sắc nhất. Từ trước tới giờ dường như chúng ta dùng tất cả mọi khái niệm của Phương Tây để đưa vào Phương Đông, chúng ta có cái kiểu tư duy theo lối mòn của Phương Tây mà ta không nhận ra. Tư duy đó đã bỏ qua những “khái niệm” mang tính Phương Đông. Ví dụ: nói đến hạnh phúc, Phương Tây nói đến mục tiêu đạt được, có sự chiếm lấy và chinh phục còn Phương Đông có một quan niệm khác: người Trung Quốc, chữ “hạnh phúc” theo Hán tự có nghĩa là cái may mắn, sự phúc lành con người đạt được, còn đối với phần đông tôn giáo ở Ấn Độ, hạnh phúc là thoát khỏi mọi dục vọng.
Như vậy, phải chăng phải dùng Phương Tây để đo khoảng cách giữa Phương Tây và Phương Đông, nhưng sau đó chúng ta lại phải dùng Phương Đông để đo độ sai lệch, cái quen biết trong khái niệm, quan niệm Phương Tây, từ đó phân tích những cái xa – gần của hai bên để hiểu biết về nhau hơn.
          So sánh văn minh Đông Tây, sẽ dễ dàng thấy được những điểm thua của Phương Đông đối với Phương Tây như trình độ kinh tế, sản xuất, khoa học kỹ thuật… Song không phải cái gì Phương Tây cũng cao hơn Phương Đông. Khi đụng đến những vấn đề triết học, tôn giáo, văn học nghệ thuật… chúng ta dễ dàng gặp bối rối và thật khó để có câu trả lời. Đồng ý rằng Phương Tây có nền văn hóa văn minh mở hơn, có tiếp thu văn minh lẫn nhau và tiếp thu Phương Đông nên có những phát triển hơn, nhưng không phải mọi thứ đều như vậy. Liệu khi so sánh tư tưởng của Khổng Tử, Lão Tử, Thích ca với các nhà tư tưởng bên trời Tây, ai dám nói rằng tư tưởng Phương Đông thấp hơn tư tưởng Phương Tây, cùng với đó là những trước tác văn học, những công trình kiến trúc đồ sộ, nghệ thuật hội họa… Và có lẽ cũng nên chú ý rằng, trong khoảng thời gian các nền văn minh như Ấn Độ, Trung Hoa đang phát triển rực rỡ thỉ văn minh Phương Tây lại chìm vào một giấc ngủ dài. Sự phát triển nhanh chậm, hơn kém dường như không phải là một tiêu chí để so sánh giá trị của các nền văn minh khác nhau.
Đối với Phương Đông, người ta quan tâm nhiều đến cái được và cái mất trong sự phát triển. Người Phương Tây chấp nhận trả giá cho phát triển, Phương Tây thường đưa một tư tưởng ra trước, bỏ qua những tư tưởng khác, lấy đó là cơ sở để so sánh, nhìn nhận, hoạt động mà phát triển mãi lên, sau mới nhìn lại. Còn Phương Đông ngay từ lúc xuất phát điểm đã cố gắng dung hòa mọi cách nhìn, không đưa ra cái nào trước, không ưu tiên xuất phát điểm, không có chỗ bắt đầu, không tuyệt đối hóa một tư tưởng nào, mọi kiểu tư duy đều được mở ra như nhau, tiếp cận như nhau. Xét một cách công bằng, tư duy Phương Đông như vậy khách quan hơn tư duy Phương Tây. Song cái thành quả mà nó đạt được lại thấp hơn Phương Tây. Nhưng điều đó đối với Phương Đông lại không quan trọng, đối với Phương Đông cái “vô” là cái quan trọng nhất, là cái không thể nói, cái trống không huyền bí, dẫu có “có” rồi cũng trở về vô. Do đó đâu cần những sự phát triển và thành tựu nhứt thời? Vì cái cao nhất cần đạt đến là sự hiểu biết thực sự về thế giới. Ở điểm này triết học (minh triết) Phương Đông đã đặt ra cho triết học Phương Tây những câu hỏi đáng suy nghẫm. Đó là sự được – mất, được rồi lại trở về “vô”… Nhà nghiên cứu Michel Bittol viết về sự đảo lộn chuyển động cho cuộc đi vòng của Francois Julien (bằng một công trình được F. Julien công bố) gây ra cho triết học: “nhìn từ cái nơi xa ấy (từ minh triết Phương Đông) toàn bộ sự nghiệp của triết học, và của khoa học là cái nối dài của nó, hóa ra chỉ đơn giản là một trường hợp đặc biệt. Hai thiên niên kỷ rưỡi nỗ lực triển khai toàn bộ các kỹ năng tư duy, rồi đạt đến những quan niệm được mọi người công nhận và có thể dùng được cho lợi ích của mỗi người, hóa ra đã đưa đến một cái nhìn cục bộ về thế giới”[13].
          Minh triết không thể chứng minh thuyết phục như tri thức triết học, khoa học, cũng không có sự linh diệu như thần khải của tín điều tôn giáo. Nhưng minh triết theo Phương Đông lại là cái hiểu biết toàn cục về thế giới, trong khi đó sự hiểu biết của Phương Tây chỉ là sự hiểu biết đơn lẻ…
          Ngay từ thế kỷ II TCN, Patangiali đã viết kinh Yoga, trình bày phương pháp và cũng là phương hướng của người tập Yoga với tám bậc tháng tìm kiếm linh hồn. Bậc thứ nhất – iama – đòi hỏi phải tuân thủ mọi điều răn và tiết chế; bậc thứ hai – niama - tẩy uế bên trong và bên ngoài thể xác và linh hồn nhờ kỷ luật tự giác; bậc thứ ba – axana – đảm bảo sức khỏe thể chất nhờ các bài thể dục; bậc bốn – praiana – kiểm soát hơi thở; bậc năm – pratiakhara – điều khiển cảm xúc; bậc sáu – tập trung và tĩnh tại; bậc bảy – dkhana – thiền và bậc tám – xamatkhi – giao hòa với linh hồn vũ trụ[14]Như vậy cái mà con người Phương Đông cần đạt đến là sự giao hòa với vụ trụ chứ không phải những thành tựu khoa học hay sự đầy đủ về vật chất.
          Chương 16 Đạo đức kinh chép: “hết sức giữ được cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng ta thấy được quy luật phản phục (vạn vật từ vô mà sinh ra rồi trở về vô).
Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng (tức đạo). Trở về căn nguyên thì tĩnh, (tĩnh là bản tính của mọi vật, cho nên) trở về căn nguyên gọi là “trở về mệnh”. Trở về mệnh là luật bất biến (thường) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết luật bất biến thì vọng động mà gây họa.
Biết luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bình (vô tư), công bình thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với đạo, hợp với đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy”[15].
Chương 56 chép: “Người biết (đạo) thì không nói (về đạo), người nói là người không biết. Ngăn hết các lối, đóng hết các cửa, không để lột sự tinh thuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hỏa đồng với trần tục, như vậy gọi là huyền đồng (hòa đồng với vạn vật một cách hoàn toàn)[16].
Người Phương Đông quan trọng là mối dây liên hệ giữa các dự vật, hiện tượng, con người trở thành trung tâm liên kết, tìm sự hài hòa với tự nhiên chứ không phải hiểu biết cụ thể, thành tựu cụ thể.
Người Phương Đông cũng phân biệt các trình độ hiểu biết khác nhau. Kinh Upanishad phân chia sự nhận thức của con người thành hai trình độ hiểu biết: trình độ nhận thức ở bậc hạ trí và trình độ nhận thức ở bậ thượng trí hay “minh giác siêu việt”. Hiểu biết hạ trí bao gồm những hiểu biết về các tri thức như khoa học thực nghiệm, ngữ pháp, ngữ âm, luật học, phép tụng, niệm, nghi lễ, thiên văn học, toán học… và cả tứ “Veda” đều thuộc nhận thức ở bậc hạ trí. Mà nhận thức bậc hạ trí chỉ có thể nhìn thấy bề ngoài của sự vật hiện tượng, thấy được cái cụ thể, hữu hình, thường biến mà không thấy được bản chất tối cao của vũ trụ và không có ích cho mục đích cuối cùng. Chỉ có hiểu biết ở bậc thượng trí, tức là trình độ nhận biết vượt qua tất cả thế giới sự vật, hiện tượng, hữu hình. Hữu hạn, thường biến để nhận thức một thực tại chân thật, tuyệt đối duy nhất và bất diệt. Và một khi hiểu biết ở bậc thượng trí rồi, con người có thể nhận thức được thực tướng của vạn vật, từ đó đạt đến sự thông tuệ và đi đến cứu cánh cuối cùng, đó là sự giải thoát. Chính vì thế ngạn ngữ Ấn Độ có câu: “Hiểu biết thực sự là hiểu biết có thể đưa ta tới tự do”, và người Ấn cũng đặt câu hỏi “cái gì là thực tại đầu tiên tối cao duy nhất, là căn nguyên cảu tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ biết được cả vũ trụ?” Trả lời: đó là tinh thần vũ trụ tối cao – Brahman (cũng chính là Atman trong mỗi người – hơi thở, linh hồn).
Môn phái Advaita (thuộc trường phái triết học chính thống của Ấn Độ) cho rằng: “những tư tưởng coi các sự vật hiện tượng có tính đa dạng, muôn hình muôn bẻ của vũ trụ tốtn tại thực và vĩnh viễn đó chỉ là kết qủa của sự không hiểu biết, không thấu suất được bản chất sâu xa của thế giới. Đó là trình độ nhận thức của bậc hạ trí.
Trên thực tế, theo họ, trừ Thượng đế hay Brahman ra, tất cả đều là ảo giác thuần túy mà thôi. Thế giới ảo ảnh này tuy có thật nhưng luôn luôn biến đổi, phù du, vụt mất, vụt còn, chúng chỉ là các dạng biến tướng của một thực thể duy nhất tối cao nhất bất biến Brahman.
Những phương pháp nhận thức mà Advaita nêu lên là: trực giác, khải thị, kết luận và cảm giác. Trong đó phưong pháp nhận thức chủ yếu là trực giác và khải thị. Còn kết luận và cảm giác chỉ là thứ yếu, chỉ nhận thức được thế giới sự vật, hiện tượng. Mục đích của những nỗ lực cá nhân là làm sao hiểu được rằng: đằng sau tất cả những cái muôn màu muôn vẻ là một Đấng duy nhất, tối cao và tồn tại thực sự, vĩnh viễn. Cuộc sống chân chính và chân lý tối cao của con người là phải cố gắng đặt tới sự đồng nhất giữa linh hồng và tinh thần vũ trụ tối cao, giải thoát linh hồn khỏi thế giới ảo ảnh, thoát khỏi nghiệp báo và luân hồi”[17].
Trong khi đó phái Visista Advaita (thuộc trường phái triết học chính thống của Ấn Độ) cũng có quan niệm tương tự: “Mục đích cao cả của những nỗ lực cá nhân là phải nhận ra bản chất của linh hồn mình, để giải thoát linh hồn khỏi sự ràng buộc của thực tại vật chất, của những ham muốn nhục dục thể xác con người gây nên, để đưa con người trở về với linh hồn vũ trụ tối cao (và duy nhất)”17.
Rõ ràng Phương Đông có một cách nhìn riêng, một hệ thống quan điểm riêng về sự phát triển, về những mcụ tiêu cần đạt đến và về những bậc thang của nhận thức. Tất cả những điều đó chúng ta không thể đưa những phạm trù, khái niệm và hệ quy chiếu của Phương Tây để nhìn nhận Phương Đông. Phương Đông cần được nhìn nhận một cách công tâm hơn, theo đúng nét văn hóa, quan điểm và tư duy của Phương Đông.

          5. Nhìn nhận như thế nào cho đúng?
Như đã nói từ đầu, tác giả không viết bài này để biện minh cho sự chậm tiến của văn minh Phương Đông hay ngợi ca nhân sinh quan của họ. Tác giả cũng Không phủ nhận sự trì trệ của văn minh Phương Đông trong quá khứ gần đây. Tuy nhiên rõ ràng văn minh Phương Đông không phải là một nền văn minh không thể phát triển được, đó không phải là một nền văn minh bất lực trong quá trình đi lên của mình. Nền văn minh đó có những thành tựu to lớn, có những lĩnh vực đạt được đỉnh cao, những giá trị vật chất và tinh thần cho cả thế giới. Song nền văn minh đó đã bị “khựng” lại vì sự “chủ động” trong văn hóa và tư tưởng của chính bản thân chủ nhân của nó.
Rudyard Kipling từng viết: “ôi, Phương Đông là Phương Đông, Phương Tây là Phương Tây và chẳng bao giờ chúng gặp được nhau, cho đến ngày cả hai ngồi vào Chiếc ghế phán xét cuối cùng của Thượng đế”[18]. Tác giả R. Kipling muốn nói đến một sự xa cách của văn minh Phương Đông và Phương Tây và cho rằng hai nền văn mình này không thể gặp được nhau, không có điểm chung. Văn minh Phương Đông và văn minh đúng là có nhiều sự khác biệt, song chúng đều có những điểm chung và cùng hướng đến mục tiêu cuối cùng vì sự phát triển của cả nhân loại. Do đó chúng có sự gần gũi và có thể học tập lẫn nhau. 
          Xét đến cùng, chúng ta có thể xác định một nền văn minh theo các tiêu chí sau:
Từ khái niệm văn minh – như là trạng thái phát triển cao của văn hóa vật chất và tinh thần, có thể xác định nội dung của văn minh bao gồm:
          - Trình độ chinh phục thiên nhiên và trình độ sản xuất: những phát minh, sáng tạo của con người trong quá trình lao động (công cụ, kỹ thuật, phương thức sản xuất...). Về căn bản, đó là văn minh vật chất.
- Trình độ quản lý xã hội: thể chế chính trị, tổ chức nhà nước, pháp luật.
- Thành tựu văn hóa tinh thần: chữ viết, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, triết học, tri thức về tự nhiên...
          Với ba tiêu chí nêu trên, rõ ràng Phương Đông chỉ đang chậm tiến về mặt chinh phục tự nhiên và trình độ sản xuất, cùng với đó là tri thức về tự nhiên. Còn những mặt khác nếu so sánh hai nền văn minh Đông Tây, thật khó để phân biệt trình độ giữa chúng, thậm chí có nhiều mặt Phương Đông vượt trội Phương Tây, và nhất là khi Phương Tây đang phát triển nhanh chóng, ở trên nhiều mặt không thể kiểm soát được những mặt trái, những cái “mất” của mình. Phương Tây gần như đang học tư duy và hành động một cách hợp lý, song không học nổi cách sống chỉnh thể trong sự giao tiếp với tự nhiên và vũ trụ. Hơn lúc nào hết, Phương Tây cần nhìn lại văn minh Phương Đông để tìm hiểu và học tập.
          Còn văn minh Phương Đông, thật tiếc là những điểm chậm tiến của nó hiện nay lại là động lực cho sự phát triển (như tri thức khoa học kỹ thuật). Đành rằng Phương Đông có quan điểm riêng của mình về sự phát triển song trong điều kiện hiện nay, khi mà trên thế giới, nhất là ở Phương Đông con người đang đối mặt với nhiều khó khăn về cuộc sống vật chất phía trước thì Phương Đông cần phải thay đổi. và như đã nhận định ở trên, phải chăng đi từ con đường vật chất để đến mục đích tinh thần sẽ dễ dàng hơn, mang lại kết quả hơn so với cách đi trực tiếp bằng con đường tinh thần mà Phương Đông đã đi trong lịch sử!
Phương Đông thay đổi đang cần thay đổi để phát triển hợp lý và cần giữ lại những hạt nhân tư tưởng của mình để nhanh chóng tiến lên, đẩy cao nền văn minh và sớm đạt được những mục tiêu mà bản thân nền văn minh này hướng đến.

 Tài liệu tham khảo: 
1. Xin xem thêm Võ Mai Bạch Tuyết, 2008, “Giới thiệu một số phát minh của Trung Quốc thời cổ đại”,Kỷ yếu Hội thảo khoa học Những vấn đề về nghiên cứu và giảng dạy lịch sử văn minh thế giới, Khoa Lịch sử - ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP Hồ Chí Minh, trang 140 – 145.
2. Will Durant, 2004, Lịch sử văn minh Ấn Độ (Nguyễn Hiến Lê dịch), NXB VHTT, Hà Nội, trang 251.
3. Hồ Sĩ Quý, 2005, Về giá trị và giá trị Châu Á, NXB CTQG, Hà Nội, trang 87
4. Khổng Tử, 2002, Luận ngữ, NXB Văn học, trang 695.
5. Will Durant, 2004, Sđd, trang 63.
6. Đặng Hữu Toàn và các tác giả khác, 2005, Các nền văn hóa thế giới, NXB Từ điển bách khoa, trang 88. 
7. Khổng Tử, 2002, Sđd, trang 572.
8. Đặng Hữu Toàn và các tác giả khác, 2005, Sđd, trang 67.
9. Đặng Hữu Toàn và các tác giả khác, 2005, Sđd, trang 137.
10. Doãn Chính (Chủ biên), 2006, Veda – Upanishad những bộ kinh triết lý tôn giáo cổ Ấn Độ, NXB CTQG, Hà Nội, trang 102.
11. Nguyễn Hiến Lê, 1994, Lão tử Đạo đức kinh, NXB Văn hóa, trang 181
12. Hoàng Ngọc Hiếu, 2005, “Đạo đức học mạnh Tử - Minh triết Đông Á cổ”,  Sang viễn Đông, trở về viễn Tây, NXB Đà Nẵng, trang 94.
13. Hoàng Ngọc Hiếu, 2005, Sđd, trang 25.
14. X. Carpusina & V. Carpusin, 2004, Lịch sử văn hóa thế giới, NXB Thế giới, Hà Nội,  trang 198.
15. Nguyễn Hiến Lê, 1994, Sđd, trang 188, 182 
16. Nguyễn Hiến Lê, 1994, Sđd, trang 246.
17. Doãn Chính (Chủ biên), 2005, Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ, NXB CTQG, trang 585, 586, 588.
18. Stephen Oppenheimer, 2005, Địa đàng ở Phương Đông, NXB Lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, trang 713.










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét